Bản án về tội trộm cắp tài sản số 53/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 53/2021/HS-ST NGÀY 13/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 39/2021/TLST-HS ngày 09 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2021/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Nhật Đ, sinh năm 1983 tại Tp. Cần Thơ; nơi đăng ký thường trú: phường A, quận B, Tp. Cần Thơ; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Ngọc Đ và bà: Trân Thị Thu N; có vợ: Võ Thị C, sinh năm 1988 và 02 người con, lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2018; tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: bản án số 78/2010/HSST ngày 19/3/2010 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong bản án ngày 05/3/2011; tạm giữ, tạm giam: 12/9/2020. Có mặt.

2. Nguyễn Văn H, sinh năm 1998 tại Tp. Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: Phường C, Quận D, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn B, sinh năm 1972 và bà: Trần Thị P, sinh năm 1973; có vợ: Nguyễn Minh Ngọc P, sinh năm 1998 và 02 người con, lớn sinh năm 2019, nhỏ sinh năm 2020; tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: ngày 03/3/2016 bị Công an phường Tân Quy, Quận 7 xử phạt hành chính 750.000 đồng, đóng phạt vào ngày 09/3/2016; tạm giữ, tạm giam: 12/9/2020. Có mặt.

3. Trịnh Hoài H1, sinh năm 1982 tại Tp. Cần Thơ; nơi đăng ký thường trú: Phường E, Quận F, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: thợ hồ; trình độ học vấn: không biết chữ; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trịnh Văn N (chết) và bà: Nguyễn Thị M, sinh năm 1952; tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: Ngày 26/4/2010 bị Công an Phường 15, quận Tân Bình xử phạt vi phạm hành chính số tiền 150.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, ngày 29/7/2011 bị Công an phường Trường Thọ, quận Thủ Đức xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.000.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, bản án số 171/2013/HSST ngày 04/7/2013 Tòa án nhân dân quận 8, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong bản án ngày 24/9/2014; tạm giữ, tạm giam: 12/9/2020. Có mặt.

4. Phạm Thị Thu T, sinh năm 1970 tại Tp. Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: Phường G, Quận H, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn C (chết) và bà: Bùi Thị Xuân H; có chồng: Trần Văn T, sinh năm 1969 và có 02 người con, lớn nhất sinh năm 1987, nhỏ nhất sinh năm 2007; tiền án: không; tiền sự: không; tạm giữ, tạm giam: 12/9/2020. Có mặt.

- Bị hại: Em Huỳnh Thị Phương A, sinh ngày 15/11/2006, nơi cư trú: Phường I, quận K, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Huỳnh Tiến D, là cha của bị hại, nơi cư trú: Phường I, quận K, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Hồ Thị H1, sinh năm 1984, nơi đăng ký thường trú: xã L, huyện M, tỉnh Đồng Tháp. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Thị Thu T thuê nhà trọ tại địa chỉ xã N, huyện O, Tp. Hồ Chí Minh ở cùng chồng và con, không đăng ký tạm trú. Khoảng cuối tháng 8 năm 2020, Nguyễn Nhật Đ từ Cần Thơ đến Tp. Hồ Chí Minh ở nhờ nhà trọ của T. Ngày 09/9/2020, Nguyễn Văn H đến ở lại nhà T chơi.

Khoảng 07 giờ 00 phút ngày 11/9/2020, H và Đ ngồi chơi tại hiên trước nhà, không có tiền tiêu xài Đ rủ H đi tìm xe đạp để sơ hở bán lấy tiền tiêu xài, do cũng không có tiền, H đồng ý, đồng thời cho Đ biết có quen với Trịnh Hoài H1 đang cần tiền vì con H1 đang bệnh nhập viện điều trị. Đ nói với H điện thoại rủ H1 cùng tham gia. Khi nhận được điện thoại của H rủ đi trộm xe đạp điện, H1 đang cần tiền nên đồng ý, hẹn gặp H1 tại quán hủ tíu gần nhà. Cùng lúc, T từ khu vực nhà bếp đi ra nghe Đ và H bàn nhau đi trộm cắp, Đ rủ T tham gia, T đang cần tiền đóng học cho con nên đồng ý. Khoảng 07 giờ 30 phút, cùng ngày, Đ điều khiển xe máy hiệu Luvias biển số 60B7-293.66 chở H, T đi xe ôm và H1 điều khiển xe máy hiệu Airblade biển số 61E1-250.32 đến ăn sáng tại xã P, huyện R, Tp. Hồ Chí Minh. Tại đây, cả nhóm bàn bạc thống nhất theo ý kiến của Đ, Đ chở T chạy trước đi tìm tài sản sơ hở, H1 chở H chạy sau, khi Đ và T phát hiện tài sản, Đ và T chỉ cho H và H1 đồng thời giả vờ hỏi đường người dân (nếu có) để gây sự chú ý, H1 ngồi trên xe cảnh giới, H sẽ đi bộ xuống đến lấy tài sản, tài sản trộm cắp được sẽ cùng nhau bán lấy tiền chia đều cho 04 người.

Đ điều khiển xe máy biển số 60B7-293.66 chở T chạy trên nhiều tuyến đường tìm tài sản sơ hở, H1 điều khiển xe máy biển số 61E1-250.32 chở H chạy theo sau. Khi đến trước Cửa hàng M địa chỉ số 18 đường X, Phường I, quận K, Đ nhìn thấy chiếc xe đạp điện hiệu Osaka của em Huỳnh Thị Phương A (sinh ngày 15/11/2006, hơn 13 tuổi) dựng tại khu vực giữ xe bên hông cửa hàng, giáp với đường Y, không người trông coi, Đ kêu tên “Đ” (tên gọi khác của H) và hướng mắt nhìn về hướng chiếc xe đạp điện mục đích để thông báo cho H, hiểu ý của Đ, H1 dừng xe phía sau xe của Đ, H xuống xe đi bộ đến dẫn xe đạp điện xuống lòng đường, ngồi lên xe đạp xe chạy về hướng đường Y, H1 điều khiển xe gắn máy chạy đến hỗ trợ dùng tay trái đặt vào lưng của H đẩy nhằm giúp H chạy thoát. Nhìn thấy H1 và H trộm cắp được xe đạp điện, Đ điều khiển xe chở T chạy thoát về hướng đường T. Đến cầu số 1, đường S, H1 gọi điện cho ông Nguyễn Văn T2 là dượng của H1 để lấy tiền đã hỏi mượn trước đó (do vào ngày 10/9/2020, T mượn tiền ông T2 nhưng ông T2 không đồng ý nên H1 hỏi mượn ông T2 10.000.000 đồng để cho T mượn lại lấy tiền lời), hẹn ông Tuấn tại khu vực đường Hoàng Sa, quận Tân Bình. Cùng lúc, H1 nhận điện thoại của T nhưng Đ là người nghe máy, thông báo điểm hẹn. Cả nhóm gặp nhau tại quán nước Phường I1, quận K. Đến khoảng 11 giờ 15 phút cùng ngày, ông T2 điều khiển xe máy hiệu Attila biển số 54T1-1579 chở con trai là Nguyễn Văn D vừa đến quán nước thì Công an Phường 5, quận Tân Bình đến kiểm tra hành chính. Tại đây, Đ, H, T và H1 không chứng minh được nguồn gốc chiếc xe đạp điện hiệu Osakar, cả nhóm thừa nhận hành vi cùng nhau trộm cắp xe đạp điện trên, cơ quan Công an tiến hành thu giữ tang vật và mời tất cả về trụ sở Công an Phường 5, quận Tân Bình làm việc. Bị hại là em Huỳnh Thị Phương A cùng cha ruột là ông Huỳnh Tiến D đến Công an Phường 12, quận Tân Bình trình báo.

Quá trình điều tra, Nguyễn Nhật Đ, Nguyễn Văn H, Phạm Thị Thu T và Trịnh Hoài H1 thừa nhận toàn bộ hành vi như trên. Khi thực hiện hành vi Đ và T giữ vai trò tìm kiếm tài sản, Đ ra hiệu cho H1 và H nhìn thấy tài sản để trộm cắp, H giữ vai trò trực tiếp trộm cắp tài sản và H1 giữ vai trò cảnh giới, hỗ trợ H chạy thoát. Đ, H, T và H1 cố ý cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, phạm tội thuộc trường hợp “đồng phạm”. Ngoài ra, khi gặp nhau tại quán ăn xã P, huyện R, cả nhóm bàn bạc, Đ có ý kiến về cách thức thực hiện hành vi trộm cắp khi phát hiện tài sản, H, T và H1 thống nhất. Cả 04 bị can đều xác định việc bàn bạc trên là đồng thuận cùng nhau, nếu người khác có ý kiến phù hợp hơn cũng sẽ đồng ý, thể hiện cùng nhau thực hiện một tội phạm, Đ có vai trò xúi giục, không phải là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy thực hiện tội phạm nên các bị can là đồng phạm giản đơn, không thuộc trường hợp “phạm tội có tổ chức”. Lời khai của Đ, H, T và H1 phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của em Huỳnh Thị Phương A, kết quả xác định địa điểm, kết quả thực nghiệm điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án.

Đối với Nguyễn Văn T1 và Nguyễn Văn D, cả hai đến quán nước Phường I1, quận K để cho Trịnh Hoài H1 mượn tiền, không biết việc Đ, H, T và H1 trộm cắp tài sản. Lời khai của T1 và D phù hợp với lời khai của H1 và T. Do đó, không có cơ sở xác định T1 và D là đồng phạm.

Vật chứng thu giữ: đã được liệt kê tại Phiếu nhập kho vật chứng số 32/PNK ngày 05/02/2021 của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình (bút lục số 116), gồm:

- Thu giữ của Nguyễn Nhật Đ: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia TA- 1203, là tài sản cá nhân của Đ, không liên quan vụ án, nhập kho vật chứng;

- Thu giữ của Nguyễn Văn H: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia màu trắng, là tài sản của H dùng để liên lạc rủ H1 đi trộm cắp tài sản, nhập kho vật chứng;

- Thu giữ của Phạm Thị Thu T:

+ 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia TA-1034, là tài sản của T dùng để liên lạc với Trịnh Hoài H1 hẹn gặp nhau sau khi trộm cắp tài sản, nhập kho vật chứng;

+ 01 xe máy hiệu Luvias biển số 60B7-293.66, là phương tiện gây án, T khai mượn xe của con dâu là Hồ Thị H1. Xác minh chủ đăng ký xe là Đào Duy S.

- Thu giữ của Trịnh Hoài H1:

+ 01 chiếc điện thoại di động hiệu OPPO A83, là tài sản của H1 dùng để liên lạc khi H rủ đi trộm cắp tài sản và liên lạc với T hẹn gặp nhau sau khi trộm cắp tài sản, nhập kho vật chứng;

+ 01 chiếc xe máy hiệu Airblade biển số 61E1-250.32, là phương tiện gây án, H1 khai mua lại xe từ tiệm cầm đồ Hồng Kông XC2 do ông Phan Văn T làm chủ, có giấy mua bán xe vào ngày 21/3/2020. Kết quả xác minh chủ đăng ký xe là ông Phạm Trọng L, năm 2018 ông L bán lại xe cho ông Hà Ngọc B, ngày 18/02/2020 ông B bán lại xe cho ông Phan Văn T và ngày 21/3/2020 ông T bán lại xe cho H1, nhập kho vật chứng;

- Thu giữ của Nguyễn Văn T1: 01 chiếc xe máy hiệu Attila biển số 54T1- 1579, là tài sản cá nhân của ông T1, không liên quan vụ án, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình đã giao trả cho ông T1, ông T1 nhận lại tài sản không thắc mắc, khiếu nại.

Tài sản bị chiếm đoạt: Căn cứ Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 274/HĐĐGTS-TTHS ngày 13/11/2020 của Ủy ban Nhân ân quận Tân Bình (bút lục số 112): 01 chiếc xe đạp điện hiệu OSAKAR trị giá 8.500.000 đồng, trả lại cho bị hại là em Huỳnh Thị Phương A, em Phương A nhận lại tài sản không thắc mắc, khiếu nại.

Tại bản cáo trạng số 42/CT-VKS-TB ngày 09 tháng 3 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố các bị cáo Nguyễn Nhật Đ, Nguyễn Văn H, Trịnh Hoài H1 và Phạm Thị Thu T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt các bị cáo Đ và H từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, bị cáo H1 từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, bị cáo T từ 09 tháng đến 01 năm tù.

Về vật chứng và trách nhiệm dân sự thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

- Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố các bị cáo Nguyễn Nhật Đ, Nguyễn Văn H, Trịnh Hoài H1 và Phạm Thị Thu T, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung các bị cáo, lời khai của bị hại, lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau và phù hợp với bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận các bị cáo Nguyễn Nhật Đ, Nguyễn Văn H, Trịnh Hoài H1 và Phạm Thị Thu T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc xe đạp điện hiệu Osakar trị giá 8.500.000 đồng của em Huỳnh Thị Phương A, đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội đối với em Huỳnh Thị Phương A, sinh ngày 15/11/2006 nên thuộc trường hợp “Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi”, là tình tiết tăng nặng hình phạt quy định tại điểm i khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội. Nó vừa trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo hộ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác bị pháp luật ngăn cấm và bị trừng trị nhưng do động cơ tham lam nên bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm một cách liều lĩnh, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Trong vụ án này, tuy các bị cáo có bàn bạc, phân công vai trò nhưng không có câu kết chặt chẽ, chỉ là đồng phạm với vai trò giúp sức, không có tính tổ chức, nhưng khi lượng mức hình phạt có xem xét đến tính chất, mức độ hành vi, vai trò tham gia trong vụ án cũng như nhân thân của các bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tiếp tục cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm mục đích giáo dục, cải tạo các bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết: các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi và trả lại cho bị hại; các bị cáo T và H phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo T và H theo quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, các bị cáo Đ và H1 theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Huỳnh Thị Phương A và gia đình đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, thắc mắc, khiếu nại gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về vật chứng vụ án:

- Thu giữ của bị cáo Đ 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia TA-1203, là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo;

- Thu giữ của bị cáo H 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia màu trắng, xét thấy bị cáo dùng điện thoại trên để liên lạc rủ bị cáo H1 đi trộm cắp tài sản, là phương tiện phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước;

- Thu giữ của bị cáo H1:

+ 01 chiếc điện thoại di động hiệu OPPO, là phương tiện bị cáo dùng để liên lạc khi bị cáo H rủ đi trộm cắp tài sản và liên lạc với bị cáo T hẹn gặp nhau sau khi trộm cắp tài sản, là phương tiện phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

+ 01 chiếc xe máy hiệu Airblade biển số 61E1-250.32, qua xác minh bị cáo H1 là người quản lý hợp pháp và dùng xe trên làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước;

- Thu giữ của bị cáo T:

+ 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia TA-1034, là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước;

+ 01 xe máy hiệu Luvias biển số 60B7-293.66, là phương tiện phạm tội, bị cáo T khai mượn xe của con dâu là Hồ Thị H1. Xác minh chủ đăng ký xe là Đào Duy S, năm 2017 anh S đã bán chiếc xe trên cho Hồ Thị H1, làm hợp đồng ủy quyền có công chứng. Việc bị cáo T mượn xe sau đó dùng làm phương tiện trộm cắp tài sản, chị H1 không biết nên cần trả lại chiếc xe cho chị H1.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i khoản 1 Điều 52 và điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Nhật Đ và Trịnh Hoài H1;

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i khoản 1 Điều 52 và điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Văn H và Phạm Thị Thu T;

Căn cứ Điều 106; Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

[1] Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Nhật Đ, Trịnh Hoài H1, Nguyễn Văn H và Phạm Thị Thu T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo : Nguyễn Nhật Đ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/9/2020.

Xử phạt bị cáo : Trịnh Hoài H1 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/9/2020.

Xử phạt bị cáo : Nguyễn Văn H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/9/2020.

Xử phạt bị cáo : Phạm Thị Thu T 09 (chín) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 12/9/2020.

[2] Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia màu trắng, 01 chiếc điện thoại di động hiệu OPPO, 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia TA-1034 và 01 chiếc xe máy hiệu Honda Airblade biển số 61E1- 250.32, số khung: 1277884, số máy: 407674.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Nhật Đ 01 điện thoại di động hiệu Nokia TA- 1203.

Trả cho Chị Hồ Thị H1 01 xe máy hiệu Yamaha Luvias, biển số 60B7- 293.66, số khung: RLCL1SK10FY017121, số máy: 1SK1-017119.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 32/PNK ngày 05/02/2021 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình).

[3] Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, các bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 53/2021/HS-ST

Số hiệu:53/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;