Bản án về tội trộm cắp tài sản số 53/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 53/2021/HS-ST NGÀY 27/07/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27/7/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 51/2021/TLST-HS ngày 14/6/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 53/2021/QĐXXST- HS, ngày 13/7/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn N (tên gọi khác: Không), sinh năm 1993 tại huyện K, tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: Xóm 2, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn B (đã chết), con bà Trần Thị T1; vợ Nguyễn Thị M, có 01 con: Sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 01/4/2021 đến ngày 03/4/2021 chuyển tạm giam, tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay. “có mặt”.

- Bị hại: Chị Bạch Tuyết T, sinh năm 1987; nơi cư trú: Khối 7, thị trấn B, huyện K, tỉnh Ninh Bình. “vắng mặt” - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1964; nơi cư trú: Xóm Đ, xã V, huyện K, tỉnh Ninh Bình. “vắng mặt”

- Người làm chứng: Anh Dương Văn T2. “vắng mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Văn N là đối tượng nghiện ma túy. Do không có tiền để sử dụng ma túy và tiêu xài cá nhân, N đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Khoảng 18 giờ ngày 29/03/2021, Phạm Văn N mang theo 01 “vam” phá khóa tự chế, mục đích tìm sơ hở của người dân để trộm cắp tài sản. Khi đi đến khu vực trước cổng lều coi đầm nuôi thủy sản thuộc khối 10, thị trấn B, N phát hiện có 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wave, màu đen, BKS: 35K1-005.06 của gia đình chị Bạch Tuyết T, sinh năm 1987 trú tại khối 7, thị trấn B, huyện K đang dựng ngay sát đường. Quan sát thấy không có ai nên N đi đến gần dùng vam hình chữ T chọc vào ổ khóa điện của xe để phá khóa. Sau đó, Nguyện nổ máy điều khiển xe đi, khi đi được một đoạn, N dừng xe lại, tiếp tục sử dụng vam để mở cốp xe kiểm tra thấy trong cốp có 01 sổ hộ khẩu, 01 đăng ký xe môtô, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ ATM và 01 chứng minh thư nhân dân. N cất toàn bộ giấy tờ trên vào trong người và điều khiển xe môtô đến cửa hàng sửa chữa xe máy “Đ” của ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1964; trú tại xóm Đ, xã V, huyện K. N bán chiếc xe nêu trên cùng với đăng ký xe cho ông Đông với giá 2.000.000 đồng và làm giấy tờ mua bán xe với ông Đ. N nói chỉ biết ký tên và không biết đọc, biết viết nên ông Đ chủ động viết giấy mua bán xe. Do lo sợ bị phát hiện nên N nói dối ông Đ tên là Phạm Quốc D sinh năm 1994, trú tại xóm 4, xã Đ, K, Ninh Bình. Số tiền bán xe, N đã tiêu xài cá nhân hết, số giấy tờ còn lại N mang về cất giấu tại nhà và không cho ai biết.

Khi phát hiện mất xe, chị Bạch Tuyết T đã có đơn trình báo đến Công an thị trấn B.

Đến ngày 01/4/2021, Phạm Văn N đã đến trụ sở Công an huyện K để đầu thú, giao nộp toàn bộ giấy tờ đã cất giấu cùng chiếc vam phá khóa cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng thu giữ gồm: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu đen, BKS 35K1-005.06 và đăng ký xe mang tên Nguyễn Tiến V, trú tại khối 7, thị trấn B; 01 quyển sổ hộ khẩu; 01 chứng minh thư nhân dân, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ ATM của ngân hàng AGRIBANK huyện K tất cả mang tên Bạch Tuyết T; 01 thanh kim loại hình chữ T, KT (15x7,5) cm, 01 chiếc quần ngố bò màu xám chiều dài 50 cm, 01 mũ lưỡi chai màu đen, 01 đôi dép cao su màu xanh, 01 áo nỉ dài tay màu đen, 01 áo khoác dài tay màu đen Vật chứng không thu giữ được: 01 khẩu trang màu xanh N mang khi thực hiện hành vi phạm tội, sau khi xong việc đã để đâu không nhớ rõ. Số tiền 2.000.000 đồng là tiền phạm tội mà có, N khai đã tiêu xài hết, CQĐT không thu giữ được.

Tại bản Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 20/HĐ-ĐG ngày 02/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Kim Sơn kết luận: Giá trị còn lại của xe mô tô nhãn hiệu Honda -Wave màu đen, BKS 35K1-005.06 tại thời điểm bị xâm hại ngày 29/3/2021 là 7.400.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 54/CT-VKS ngày 11/6/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố như bản cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 01/4/2021.

Về vấn đề dân sự: Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì khác, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Áp dụng: khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 thanh kim loại hình chữ T, KT (15x7,5) cm. Trả lại cho bị cáo 01 chiếc quần ngố bò màu xám chiều dài 50 cm, 01 mũ lưỡi chai màu đen, 01 đôi dép cao su màu xanh, 01 áo nỉ dài tay màu đen, 01 áo khoác dài tay màu đen.

Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện toàn bộ hành vi nêu trên và không có ý kiến gì khác, không tranh luận với luận tội của đại diện Viện Kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện K, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, tội danh và điều luật áp dụng: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản khám nghiệm hiện trường; Bản ảnh chụp hiện trường, cũng như lời khai của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người làm chứng đã có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, nhưng vẫn cố ý thực hiện, hành vi đó gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự ở địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, cụ thể vào khoảng 18 giờ 10 phút ngày 29/3/2021, tại khu vực trước cổng lều coi đầm của gia đình chị Bạch Tuyết T thuộc khối 10, thị trấn B, huyện K, tỉnh Ninh Bình. Bị cáo Phạm Văn N đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 xe môtô nhãn hiệu Honda Wave, màu đen, BKS 35K1-005.06 của gia đình chị Bạch Tuyết T trị giá 7.400.000 đồng. Do đó hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”.

Điều 173. Tội trộm cắp tài sản 1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

...

Từ sự phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định bị cáo Phạm Văn N đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự như đã được viện dẫn. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, là đối tượng nghiện ma túy nhưng để có tiền thỏa mãn nhu cầu cá nhân bị cáo đã chuẩn bị công cụ, phương tiện, chủ động tìm ai có tài sản sơ hở để thực hiện hành vi phạm tội.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đã tác động gia đình khắc phục hậu quả, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Hội đồng xét xử xét thấy, sau khi đối chiếu về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cũng như nguyên nhân và điều kiện phạm tội của bị cáo, thì hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật bằng hình thức cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội [4] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm ổn định, không có tài sản riêng. Vì vậy, không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản bị mất, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đã nhận lại số tiền đã mua xe từ bị cáo. Không ai có yêu cầu gì thêm, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[6] Về các vấn đề khác:

Đối với anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1964, trú tại xóm Đ, xã V, huyện K là người mua chiếc xe môtô. Quá trình điều tra xác định anh Đ không biết đó là tài sản do bị cáo chiếm đoạt của người khác mà có và không hứa hẹn trước. Vì vậy, không có cơ sở để xử lý trách nhiệm hình sự về “Tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại Điều 323 Bộ luật hình sự. Cơ quan CSĐT - Công an huyện K đã nhắc nhở, rút kinh nghiệm đối với anh Đ là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với số tiền 2.000.000 đồng mà bị cáo tác động gia đình trả cho anh Nguyễn Văn Đông là người đã mua chiếc xe môtô. Trong quá trình điều tra bà Trần Thị T1 là mẹ đẻ bị cáo không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả lại cho bà số tiền trên, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu đen, BKS 35K1- 005.06 và đăng ký xe mang tên Nguyễn Tiến V; 01 quyển sổ hộ khẩu; 01 chứng minh thư nhân dân, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ ATM của ngân hàng AGRIBANK huyện K tất cả mang tên Bạch Tuyết T. Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã xác định tài sản thuộc quyền sở hữu của vợ chồng anh Nguyễn Tiến V và chị Bạch Tuyết T. Nên Cơ quan CSĐT - Công an huyện K đã trả lại cho chị T là có căn cứ.

Đối với 01 thanh kim loại hình chữ T, KT (15x7,5)cm là công cụ, phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc quần ngố bò màu xám chiều dài 50 cm, 01 mũ lưỡi chai màu đen, 01 đôi dép cao su màu xanh, 01 áo nỉ dài tay màu đen, 01 áo khoác dài tay màu đen là tài sản của bị cáo, nên cần trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 chiếc khẩu trang màu xanh bị cáo đeo khi thực hiện hành vi phạm tội, sau đó bị cáo đã vứt đi, không tìm lại được, nên Hội đồng xét xử không có cơ sở để xem xét.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173, các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38; khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn N 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 01/4/2021.

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu hủy 01 thanh kim loại hình chữ “T”, KT (15x7,5)cm.

- Trả lại cho bị cáo 01 chiếc quần ngố bò màu xám chiều dài 50 cm, 01 mũ lưỡi chai màu đen, 01 đôi dép cao su màu xanh, 01 áo nỉ dài tay màu đen, 01 áo khoác dài tay màu đen.

(Chi tiết như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/6/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện K và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K).

3. Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 53/2021/HS-ST

Số hiệu:53/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Khánh - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;