Bản án về tội trộm cắp tài sản số 50//2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 50//2022/HS-ST NGÀY 31/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31/3/2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 44/2022/TLST-HS ngày 17/3/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2022/QĐXXST-HS ngày 21/3/2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Anh V, sinh năm 1984; HKTT: Số 16, ngách 114/26 H, phường C, quận H, TP.H; Trình độ văn hoá: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: V Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Con ông: Nguyễn Mạnh C, sinh năm 1958 và bà Trần Thị Thanh X, sinh năm 1960; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Bản án số 178/2014/HSST ngày 21/08/2014, Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Hà Nội xử phạt 36 tháng tù về tội Cướp giật tài sản.

- Ngày 20/8/2004, Ủy ban nhân dân quận Hoàn Kiếm ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/12/2021 đến ngày 24/12/2021. Hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt tại phiên tòa.

2. Phạm Ngọc L, sinh năm 1990; HKTT: 30 N, phường T, quận H, TP.H; Trình độ văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: V Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Con ông: Phạm Văn L (Đã chết) và bà Trần Thị Thanh L, sinh năm 1962; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Bản án số 157/2014/HSST ngày 28/7/2014, Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

- Ngày 14/12/2018, Công an phường Phương Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, phạt 1.500.000 đồng.

Bị cáo đầu thú và bị tạm giữ từ ngày 15/12/2021 đến ngày 24/12/2021. Hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Đỗ Trung K, sinh năm 1964; Địa chỉ: Số 191 đường Lương Thế V, phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, TP.Hà Nội (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 14/12/2021, Nguyễn Anh V điều khiển xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius BKS 29L1-255.85 đi đến khu phố Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội thì gặp em họ là Phạm Ngọc L đang điều khiển xe máy Honda Wave RSX BKS 29D2-475.49. Do cần tiền chi tiêu cá nhân nên V đã rủ L đi xem có ai sơ hở thì trộm cắp tài sản mang bán lấy tiền chia nhau, L đồng ý. Khoảng 18 giờ 50 phút cùng ngày, cả 2 điều khiển xe máy đi đến trước số nhà 191 Lương Thế V, phường Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà Nội thì phát hiện thấy cửa nhà mở, trên vỉa hè trước cửa nhà có 01 máy ổn áp nhãn hiệu LIOA 10KVA của ông Đỗ Trung K (SN: 1964 – NKTT: số 191 đường Lương Thế V, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà Nội) để không có người trông giữ nên cả hai đã dừng lại để trộm cắp tài sản. V và L dựng xe máy rồi đi vào cùng nhau khiêng chiếc máy ổn áp trên đem để lên yên xe của L sau đó cả hai điều khiển xe bỏ chạy theo hướng đường Vũ Hữu. Lúc này, ông Đỗ Trung K phát hiện việc V và L trộm cắp tài sản nên đã đuổi theo và hô hoán. Khi L điều khiển xe bỏ chạy đến trước số nhà 443 Vũ Hữu thì bị rơi tấm lắp của máy ổn áp, V đi sau phát hiện nên đã dừng lại để nhặt thì bị ông Đỗ Trung K đuổi kịp cùng quần chúng nhân dân và Công an phường Trung Văn bắt giữ đưa về trụ sở để làm rõ còn L vẫn tiếp tục chở máy ổn áp bỏ chạy thoát. Đến 22 giờ cùng ngày, sau khi biết V đã bị bắt nên Phạm Ngọc L đã đến Công an quận Nam Từ Liêm đầu thú và giao nộp chiếc ổn áp nhãn hiệu LIOA 10KVA đã chiếm đoạt.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Anh V và Phạm Ngọc L đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Vật chứng thu giữ:

- Thu giữ của Nguyễn Anh V: 01 nắp kim loại màu nâu của máy ổn áp Lioa;

01 xe máy Yamaha Sirius màu vàng đen BKS 29L1-255.85.

- Thu giữ của Phạm Ngọc L: 01 chiếc ổn áp LIOA 10KVA; 01 xe máy Honda Wave RSX màu trắng – đen BKS: 29D2 - 475.49.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 506 ngày 23/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự quận Nam Từ Liêm, kết luận: 01 máy ổn áp Lioa 10KVA, ký hiệu DRII-10000 màu nâu, trị giá tài sản 2.500.000 đồng.

Ngày 22/12/2021, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 03 trao trả cho ông Đỗ Trung K chiếc máy ổn áp nhãn hiệu LIOA 10KVA DRII. Ông K đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường về dân sự và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho Nguyễn Anh V và Phạm Ngọc L.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius BKS 29L1-255.85 (số khung:

060620, số máy: 641060219) và chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave RSX BKS 29D2-475.49 (số khung: RLHJA3859LY029845, số máy: JA52E0151227) quá trình điều tra xác định là tài sản của ông Nguyễn Mạnh Cường (SN: 1958; HKTT: Chương Dương, Hoàn Kiếm Hà Nội, là bố đẻ của Nguyễn Anh V) và là tài sản của bà Trần Thị Thanh Liễu (SN: 1962; HKTT: Thanh Nhàn, Hai Bà Trưng Hà Nội, là mẹ đẻ của Phạm Ngọc L). Do ông Cường và bà Liễu không biết việc V và L lấy xe máy để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên ngày 10/01/2022, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 07 trao trả cho ông ông Nguyễn Mạnh Cường chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius BKS 29L1-255.85 và trao trả bà Trần Thị Thanh Liễu chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave RSX BKS: 29D2 - 475.49.

Tại bản cáo trạng số 51/CT-VKS ngày 14/3/2022 Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã truy tố các bị cáo Phạm Ngọc L, Nguyễn Anh V về tội “Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại điện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo theo nội dung bản cáo trạng, sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Ngọc L từ 07 đến 10 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Anh V từ 09 đến 12 tháng tù.

Về vật chứng: Không.

Về dân sự: Không.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã khai nhận: Khoảng 18 giờ 50 phút ngày 14/12/2021, tại trước cửa số nhà 191 Lương Thế V, phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, Nguyễn Anh V và Phạm Ngọc L đã có hành vi trộm cắp chiếc máy ổn áp nhãn hiệu LIOA 10KVA DRII, trị giá 2.500.000 đồng của ông Đỗ Trung K thì bị phát hiện, bắt giữ.

[3] Hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố các bị cáo là có căn cứ và đúng quy định pháp luật.

[4] Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội, vai trò và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của từng bị cáo thấy: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn. Do cần tiền chi tiêu cá nhân nên bị cáo Nguyễn Anh V rủ bị cáo Phạm Ngọc L đi trộm cắp tài sản mục đích lấy tiền chia nhau tiêu sài, vì vậy xác định vai trò của các bị cáo là ngang nhau. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản, gây mất trật tự trị an xã hội, tạo dư luận xấu trong khu vực. Các bị cáo nhận thức rõ việc trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Bản thân các bị cáo có nhân thân xấu. Bị cáo V đã có 01 tiền án về tội “Cướp giật tài sản”, đã từng bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; bị cáo L đã có 01 tiền án, 01 tiền sự về hành vi “Trộm cắp tài sản”, đã được xóa án tích nhưng các bị cáo không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần xét xử nghiêm minh cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, nhằm đảm bảo tính giáo dục đối với các bị cáo và làm bài học ngăn ngừa chung.

Tuy nhiên, xét các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bị hại đã nhận lại tài sản đầy đủ và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, bị cáo L đầu thú, tài sản chiếm đoạt không lớn nên áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có điều kiện thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Xử lý vật chứng: Không.

[7] Về dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 173; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Anh V, Phạm Ngọc L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh V 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án (được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 15/12/2021 đến ngày 24/12/2021).

Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc L 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án (được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 15/12/2021 đến ngày 24/12/2021).

Về dân sự: Không.

Về vật chứng: Không.

- Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333, điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 50//2022/HS-ST

Số hiệu:50//2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;