Bản án về tội trộm cắp tài sản số 49/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 49/2022/HS-ST NGÀY 28/02/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 02 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế (60 đường Nguyễn Huệ) xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩmthụ lý số: 01/2022/TLST-HS ngày 05 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38 /2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2022, đối với bị cáo:

Nguyễn Trung H (tên gọi khác: Đ), sinh ngày 23 tháng 02 năm 1994 tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi cư trú: 73 Đường T, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H (Sinh năm 1958) và bà Lê Thị U (Sinh năm 1956); Anh chị em ruột có 03 người, bị cáo là con thứ 3; vợ: Trần Thị Mỹ N, sinh năm 1994, con: có 01 con, sinh năm 2020; tiền sự: Ngày 07/12/2020, bị Công an thành phố H xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; tiền án: Không.

Nhân thân: Lúc nhỏ ở với gia đình, học văn hóa đến lớp 6 thì nghỉ học ở nhà.

- Ngày 15/10/2010, bị Công an thành phố H xử phạt vi phạm hành chính, số tiền 750.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 07/6/2011, bị Công an thành phố H xử phạt vi phạm hành chính, số tiền 375.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

- Ngày 25/7/2012, bị Công an thành phố H xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 04/12/2012, bị Công an thành phố H xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

- Ngày 27/02/2014, bị Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 06 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 30/01/2018, chấp hành xong hình phạt tù, trở về sinh sống tại địa phương.

- Ngày 07/12/2020, bị Công an thành phố H xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 11/11/2021cho đến nay -Bị cáo có mặt.

- Bị hại:Anh Trần N, sinh năm 1979; nơi cư trú: 9/36 Đường P, phường Đ, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.

-Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1958. Nơi cư trú:73 Đường T, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - có mặt.

+ Bà Hồ Thị N, sinh năm 1971. Nơi cư trú: 07 Đường T, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 09/11/2021, Nguyễn Trung H đi bộ trên các tuyến đường của thành phố H để tìm sơ hở của người dân để trộm cắp tài sản. Khi đi qua nhà của anh Trần N, tại 9/36 Đường P, phường Đ, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, qua cửa kính H phát hiện tại phòng khách tầng 1 ngôi nhà có một máy tính xách tay nhãn hiệu ASUS, màu xám đặt ở trên bàn, không có người, cửa chính chỉ khép hờ. H lén lút mở cửa đi vào nhà anh N, rút dây cắm sạc pin ra, lấy máy tính xách tay giấu vào trong người rồi đi về nhà.

Đến khoảng 21 giờ 00 phút cùng ngày, H gọi xe ôm chở đến cửa hàng buôn bán điện thoại di động Laptop, địa chỉ: 79 Đường N, phường G, thành phố H, bán máy tính xách tay này cho chị Hồ Thị N là chủ cửa hàng với giá 3.900.000đồng. Sau khi có được tiền, H sử dụng tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 10/11/2021, khi được Cơ quan điều tra triệu tập, H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 (một) cái mũ lưỡi trai màu đen, trên mặt mũ in dòng chữ nổi “adiadas” đã qua sử dụng;

- 01 (một) áo Jean dài tay màu xanh đã qua sử dụng;

- 01 (một) hóa đơn mua hàng ngày 12/8/2021 do Công ty TNHH P bán cho anh Trần N;

- 01 (một) thùng giấy của máy tính xách tay nhãn hiệu Asus màu xám, trên thùng có in thông tin máy là X415E, số S/N: M6N0CV02573228;

- 02 file dữ liệu được trích xuất từ camera giám sát được lưu trong đĩa DVD do anh Trần N giao nộp.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 275/KL-HĐĐG ngày 11/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố H (qua hồ sơ) xác định tại thời điểm chiếm đoạt: 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu AsusX415E màu xám có giá trị 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng).

Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã trả lại mũ lưỡi trai và áo Jean cho Nguyễn Trung H; trả lại hóa đơn mua hàng và thùng giấy đựng máy tính cho anh Trần N. Ông Nguyễn Văn H thay mặt Nguyễn Trung H bồi thường cho anh Trần N số tiền 10.000.000đồng. Sau khi nhận tiền và tài sản, anh N không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho H.

Bản cáo trạng số 20/CT-VKS-HS ngày 04/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế truy tố Nguyễn Trung H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Trung H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 09 tháng đến 01 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Không có ai yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Về xử lý vật chứng: Đã xử lý xong nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Về án phí: Đề nghị buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H; bị cáo nói lời nói sau cùng là đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, xét lời khai của bị cáo phù với lời khai của bị hại tại cơ quan điều tra và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở để khẳng định: Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 09/11/2021, tại 9/36 Đường P, phường Đ, thành phố H, Nguyễn Trung H đã lén lút chiếm đoạt của anh Trần N 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu ASUS, màu xám, trị giá 5.000.000 đồng, đưa đi bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự như bản cáo trạng số 20/CT- VKS-HS ngày 04/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi thường và bất chấp pháp luật, không những xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, an ninh xã hội tại địa phương. Do vậy, việc đưa bị cáo ra xét xử tại phiên tòa hôm nay để áp dụng một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra là cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời cũng để răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Xét về nhân thân của bị cáo thấy rằng: Bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần vi phạm pháp luật bị xử phạt hành chính và xử lý hình sự, hiện còn một tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Nhưng bị cáo không lo làm việc để kiếm tiền nuôi sống bản thân và giúp đỡ gia đình, mà lười lao động, muốn kiếm tiền trên thành quả lao động của người khác, đã lén lút trộm cắp tài sản. Nên cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội. Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt cần xem xét cho bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thích đáng cho người bị hại, tại cơ quan điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Nên cần xử phạt bị cáo một mức án phù hợp như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã được bồi thường đầy đủ, không ai có yêu cầu gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trung H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trung H 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam là ngày 11/11/2021.

2.Về án phí: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội; buộc bị cáo Nguyễn Trung H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3.Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 49/2022/HS-ST

Số hiệu:49/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;