Bản án về tội trộm cắp tài sản số 48/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ LỘC, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 48/2021/HS-ST NGÀY 02/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 40/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2021/QĐXXST- HS ngày 18 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Đại H, sinh năm 1997 tại huyện N, tỉnh Hà Nam. Nơi cư trú: Thôn X, xã M, huyện N, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn N và bà Vũ Thị K; có vợ Cao Thị Kim T và 01 con; tiền án: Không; tiền sự: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 16/QĐ- XPHC ngày 23/8/2021 của Công an xã Đ, huyện N, tỉnh Hà Nam về hành vi trộm cắp tài sản; bị bắt tạm giam ngày 01 tháng 9 năm 2021; có mặt.

- Bị hại: Ông Trần Văn T, sinh năm 1964; Nơi cư trú: Thôn H, xã P, huyện L, tỉnh Nam Định; vắng mặt.

- Người làm chứng: Ông Trần Văn T; Bà Trần Thị T1; Anh Nguyễn Bá H1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 25/8/2021, Nguyễn Bá H1, sinh năm 1998; trú tại thôn Đ, xã B, huyện N, tỉnh Hà Nam điều khiển xe Mô tô biển số 18K1-054.xx đến sân bóng huyện N, tỉnh Hà Nam gặp Trần Đại H rồi cùng nhau đi sang Nam Định tìm kiếm xem có ai sơ hở thì trộm cắp tài sản. Khoảng 8 giờ 45 phút cùng ngày, H1 chở H đi đến khu vực xã P, huyện L thì xe bị thủng săm nên phải vào cửa hàng sửa chữa xe máy của anh Trần văn T, sinh năm 1976; trú tại: Thôn L, xã P, huyện L để sửa. Trong lúc chờ sửa xe, H nảy ý mượn xe Mô tô của anh T để đi trộm cắp tài sản nên đã nói dối anh T cho mượn xe để đi lấy hàng. Tin lời H, anhT cho H và H1 mượn chiếc xe Mô tô biển số 18B1-032.xx của gia đình mình. Sau khi mượn được xe, H điều khiển chở H1 ngồi phía sau đi đến thôn H, xã P, huyện L thì phát hiện thấy 02 chiếc cầu thang sắt dùng để di chuyển máy cày lên xuống ruộng của ông Trần Văn T, sinh năm 1964 để bên vệ đường giáp vườn nhà bà Trần Thị T1, sinh năm 1968 ở cùng thôn H nhưng không có người trông coi. Lúc này, H dừng xe đổi cho H1 cầm lái còn mình nhảy xuống bê một chiếc cầu thang lên sau yên xe rồi ngồi giữ để H1 phóng xe tẩu thoát thì bị bà T1 nhìn thấy tri hô, đuổi theo nhưng không kịp. H1 điều khiển xe chạy đến cửa hàng mua phế liệu của chị Đoàn Thị Đ, sinh năm 1975 ở thôn C, xã P bán chiếc cầu thang sắt lấy 360.000đ. Sau đó, cả 2 về đổi trả xe cho anh T và lấy lại xe của mình, đồng thời thanh toán tiền công vá săm xe hết 30.000đ. Số tiền còn lại 330.000đ, H và H1 cùng nhau tiêu sài hết.

Sau khi bị mất tài sản, ông T đã làm đơn trình báo Công an xã P. Công an xã P đã phối hợp với Công an các xã lân cận để xác minh, truy tìm đối tượng. Đến khoảng 17 giừo 50 phút ngày 31/8/2021, khi H và H1 tiếp tục điều khiển xe Mô tô biển số 18K1-054.xx trên địa bàn xã T, huyện L nhằm tìm kiếm có ai sơ hở để trộm cắp tài sản thì bị tổ tuần tra Công an xã T phát hiện, kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, H và H1 đã khai nhận hành vi chiếm đoạt chiếc cầu thang của ông T ngày 25/8/2021 tại thôn H, xã P. Công an xã T đã bàn giao vụ việc cho Công an xã P giải quyết. Qua xác minh, Trần Đại H đã bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản nhưng chưa được xoá. Do dó, Công an xã P chuyển toàn bộ hồ sơ vụ việc cho Công an huyện L giải quyết theo thẩm quyền. Cơ quan điều tra đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu thập các tài liệu, vật chứng để phục vụ công tác điều tra.

Bản kết luận định giá tài sản số 14/ĐG-HĐĐG ngày 01 tháng 9 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 01 cầu thang lên xuống của xe máy xúc đã cũ bằng sắt chữ V có kích thước (3 x 0,4)m, khối lượng 44kg có giá trị 792.000đ (bảy trăm chín hai nghìn đồng).

Tại Cơ quan điều tra, H và H1 khai nhận đã cùng nhau thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là chiếc cầu thang sắt của ông T như trên. Ông T đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu đề nghị bồi thường gì. Cơ quan điều tra đã xử lý hành chính đối với H1 về hành vi trộm cắp tài sản, đồng thời xác định chiếc xe Mô tô biển số 18K1-054.xx là tài sản hợp pháp của H1 nên đã trả lại cho H1.

Chiếc xe Mô tô Deahan biển số 18B1-032.xx mà H1 điều khiển chở H đi chiếm đoạt tài sản của ông T được xác định là tài sản hợp pháp của anh Trần Văn T. Anh T không biết việc H và H1 mượn xe của mình để sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với anh T, đồng thời đã trao trả chiếc xe này cho anh T.

Việc chị Đoàn Thị Đ chủ cửa hàng phế liệu đã mua chiếc cầu thang sắt của H và H1, qua điều tra xác định chị Đ không biết đó là tài sản do phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với chị Đ và chị Đ cũng không yêu cầu H và H1 phải trả lại số tiền 360.000đ đã bỏ ra mua chiếc cầu thang sắt.

Bản cáo trạng số 45/CT- VKSML ngày 27/10/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo Trần Đại H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự; xác định bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng và được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng “ và “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo H khai nhận do cần tiền mua ma tuý sử dụng nên đã cùng Nguyễn Bá H1 thực hiện hành vi phạm tội như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố; xác nhận kết luận định giá về giá trị tài sản đã chiếm đoạt là đúng; Viện kiểm sát truy tố là không oan; bản thân xin nhận trách nhiệm về hành vi, hậu quả đã gây ra. Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Đại H phạm tội “Trộm cắp tài sản”; căn cứ áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; tình tiết giảm nhẹ tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù. Bị cáo không bào chữa gì và có lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét cho được hưởng mức án thấp nhất

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mỹ Lộc cũng như Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc cũng như Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo, bị hại cũng như những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét thấy lời khai bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vụ án như: Biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm; biên bản và tài liệu khám nghiệm hiện trường; Quyết định tạm giữ tang vật, phương tiện; kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự; đơn trình báo và lời khai của bị hại; kết quả nhận dạng và lời khai của người làm chứng cũng như toàn bộ lời khai bị cáo tại Cơ quan điều tra. Từ các tình tiết chứng cứ này đã có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 9 giờ 20 phút ngày 25 tháng 8 năm 2021, tại thôn H, xã P, huyện L, tỉnh Nam Định. Lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của người khác, Trần Đại H đã cùng với Nguyễn Bá H1 thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt của ông Trần văn T một chiếc cầu thang sắt hình chữ V, kích thước (3 x 0,4)m, khối lượng 44kg có giá trị 792.000đ (bảy trăm chín hai nghìn đồng). Do Trần Đại H đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm nên bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về dấu hiệu đồng phạm: Trong vụ án này có Nguyễn Bá H1 cùng tham gia thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản với Trần Đại H. Tuy nhiên, do giá trị tài sản chiếm đoạt dưới hai triệu đồng, bản thân H1 không có tiền án, tiền sự liên quan đến các tội xâm phạm sở hữu nên hành vi của H1 chưa đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản. Vì vậy, Cơ quan điều tra đã không xử lý H1 với vai trò đồng phạm mà quyết định xử lý hành chính đối với H1 về hành vi trộm cắp tài sản là hoàn toàn đúng đắn.

[4] Về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo Trần Đại H là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, là khách thể được pháp luật Nhà nước bảo hộ. Mặt khác, bị cáo thực hiện hành vi giữa ban ngày tại nơi dân cư sinh sống, qua đó thể hiện sự liều lĩnh táo bạo, bất chấp dư luận xung quanh và coi thường pháp luật của bị cáo. Hành vi đó không những gây bất bình, phẫn nộ trong quần chúng nhân dân mà còn ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhưng do lối sống buông thả, không chịu lao động và tu dưỡng nhưng lại muốn hưởng thụ trên thành quả lao động của người khác nên đã dấn thân vào con đường phạm tội. Hành vi đó của bị cáo là vi phạm pháp luật Nhà nước, trái với đạo đức xã hội. Vì vậy, bị cáo sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của mình.

[5] Về trách nhiệm hình sự: Xét tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi, khách thể được pháp luật Nhà nước bảo hộ bị xâm phạm, động cơ mục đích phạm tội của bị cáo, hậu quả nguy hại cho xã hội thì đối với bị cáo cần phải áp dụng biện pháp xử lý nghiêm để cải tạo, giáo dục là thoả đáng; đồng thời cũng mới đáp ứng được yêu cầu răn đe, giáo dục phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo ngoài tình tiết là yếu tố định tội thì không có tình tiết nào bị coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình khai báo bị cáo thành khẩn, ăn năn hối cải.

Đây là những tình tiết được Hội đồng xét xử xem xét vận dụng các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo được hưởng chính sách khoan hồng của pháp luật Nhà nước. Xét mức án Viện kiểm sát đề nghị áp dụng để cải tạo bị cáo là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị này và sẽ cân nhắc để ấn định một mức án cụ thể, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời cũng đủ để cải tạo bị cáo thành người có ích cho gia đình và xã hội.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Trần Văn T đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Đại H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo H 09 (chín) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 01 tháng 9 năm 2021.

2. Về án phí:

Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án;

Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 48/2021/HS-ST

Số hiệu:48/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Lộc - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;