Bản án về tội trộm cắp tài sản số 47/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 47/2022/HS-ST NGÀY 12/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 08/2022/TLST-HS ngày 05 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 114/2022/QĐXXST-HS ngày 28/03/2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn T - Tên gọi khác: Không; sinh ngày 15 tháng 6 năm 1986 tại xã D Tân, huyện D Châu, tỉnh N An; nơi cư trú: Xóm 8, xã D Tân, huyện D Châu, tỉnh N An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn D (chết) và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1944; Vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1993 và có 02 con, con lớn sinh năm 2016 và con nhỏ sinh năm 2019; tiền án: Tại bản án số 125/2020/HSST ngày 15/09/2020 của Tòa án nhân dân huyện D Châu, tỉnh Nghệ An xử phạt Nguyễn Văn T 04 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/11/2021; tiền sự: Ngày 18/02/2021 bị UBND xã D Tân, huyện D Châu áp dụng giáo dục tại xã 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo quyết định số 134; Ngày 17/08/2021 bị Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 55/2021/QĐ-TA đối với Nguyễn Văn T. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/10/2021 đến nay (có mặt).

Bị hại:

Bị hại: ông Nguyễn Hữu T, sinh năm 1960. (vắng mặt) Trú tại: xóm 9, xã Diễn T, huyện D Châu, tỉnh N An.

Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:

- ông Hoàng Văn B, sinh năm 1962. (vắng mặt) Trú tại: xóm Đ Hậu, xã D Thịnh, huyện DChâu, tỉnh N An.

- bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1990. (vắng mặt) Trú tại: xóm 8, xã D Tân, huyện D Châu, tỉnh N An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo: Vào khoảng 08 giờ 30 phút ngày 24/10/2021, Nguyễn Văn T đi đến nhà chị Nguyễn Thị T để mượn xe máy nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius màu đen xám, BKS 37P5-X6 đi đào chuối. Sau khi mượn được xe, T điều khiển xe máy đi đến địa bàn xã D Thành, huyện D Châu, tỉnh N An nhằm mục đích trộm cắp tài sản. Khi đến trước cửa hàng mua bán nông sản Tr tại xóm 9, xã Diễn Thành, huyện Diễn Châu do ông Nguyễn Hữu T làm chủ. T dừng lại, quan sát vào phía tỏng thấy không có ai trông coi nên đi vào lấy trộm 01 (một) bì xác rắn màu da cam, bên trong đựng 46 Kg nhân lạc. Sau khi trộm cắp được tài sản, T đặt lên xe máy rồi đi theo đường Quốc lộ 1A hướng đi thành phố Vinh tìm nơi tiêu thụ ngay. Sau đó ông T phát hiện bị mất 01 (một) bì lạc nhân nên đi tìm, tìm được khoảng 100m thì phát hiện Nguyễn Văn T đang điều khiển xe máy chở bì lạc nhân vừa bị mất trộm nên nên ông T đuổi theo. Khi đến Cơ sở ép dàu lạc, vừng Túc Bốn tại xóm Đ Hậu, xã D Thịnh, huyện D Châu, N An do ông Hoàng Văn B, sinh năm 1962 làm chủ thì thấy T đang giao dịch mua, bán bì lạc trên với ông Bốn nên ông T đi đến giữ T lại và nói: “Mày lấy trộm bì lạc của tao”, biết bị lộ nên T chối cãi: “Ông ở mô mà nói tôi lấy bì lạc của ông” rồi giằng ra định lên xe máy bỏ chạy nhưng bị ông T giữ lại, sau đó T tiếp tục giằng ra được để lại bì lạc nhân và chiếc xe máy rồi bỏ chạy.

Đến ngày 27/10/2021 nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên T đến trụ sở Công an xã D Thành, Diễn Châu đầu thú.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 29/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự xác định: 46kg lạc nhân có giá trị 820.000.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: bị hại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan không yêu cầu gì.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 30/CT-VKSDC ngày 05/01/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện D Châu truy tố bị cáo Nguyễn Văn T đã phạm tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 12(mười hai) tháng đến 15 (mười lăm) tháng tù; miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhận tội, không tranh luận gì về tội danh.

Lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Diễn Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận: Vào khoảng 08 giờ 20 phút ngày 24/10/2021, tại nhà ông Nguyễn Hữu T thuộc xóm 2, xã D Thành, huyện DChâu, tỉnh N An; Nguyễn Văn T đã có hành vi trộm cắp 46kg lạc nhân. Trị giá tài sản mà Nguyễn Văn T chiếm đoạt là 820.000 đồng (tám trăm hai mươi ngàn đồng). Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng, phù hợp với Bản kết luận định giá tài sản ngày 10 tháng 9 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - UBND huyện Diễn Châu và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo Nguyễn Văn T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Bị cáo có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng lại tiếp tục cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó có đủ căn cứ kết luận hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố và luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Vụ án có tính chất nghiêm trọng. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, bị cáo có nhân thân xấu. Hành vi phạm tội của bị cáo hành vi phạm tội là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, làm ảnh hưởng đến an toàn, trật tự công cộng. Vì thế cần phải xử phạt nghiêm và cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện để giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, đầu thú là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo có hoàn cảnh điều kiện khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

[6] Xử lý vật chứng: 46kg lạc nhân sau khi tiến hành định giá tài sản, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là ông Nguyễn Hữu T là có căn cứ. Và xe máy nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius màu đen xám, BKS 37P5-X6 đã trả lại cho chủ sở hữu hơp pháp nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí hình sự: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Đối với chị Nguyễn Thị T, khi cho T mượn xe máy, chị T không biết việc Nguyễn Văn T mượn chiếc xe máy để thực hiện hành vi phạm tội nên không cấu thành tội phạm.

Đối với ông Hoàng Văn Blà người mua tài sản của T nhưng chưa hoàn thành và ông Bốn không biết bì nhân lạc mà Tr mang đến bán là tài sản do phạm tội mà có nên không phạm tội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 12 (mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 27/10/2021).

Án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 buộc các bị cáo Nguyễn Văn Tr phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

93
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 47/2022/HS-ST

Số hiệu:47/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diễn Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;