TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒN ĐẤT, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 46/2023/HS-ST NGÀY 19/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 19 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 46/2023/TLST-HS ngày 03 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Trần Văn A, sinh năm 1999; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ B, khu phố Đ, thị trấn H, huyện H, tỉnh Kiên Giang; chỗ ở: Tổ A, Ấp H, xã T, huyện H, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 6/12: dân tộc: Kinh; giới tính: Nam, Tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Thanh T và bà Trần Thị P; bị cáo có vợ và 01 con; nhân thân: Ngày 31/5/2023, bị Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang xử phạt 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (theo Bản án số 23/2023/HS-ST); bị cáo đang chấp hành án từ ngày 18/12/2022 cho đến nay; tiền sự: Không. Bị cáo có mặt tại phiên tòa. Bị cáo tự bào chữa.
2. Chau Phúc, sinh ngày 30/01/2005; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Tổ E, ấp H, xã T, huyện H, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 02/12: dân tộc: Khmer; giới tính: Nam, Tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Chau Minh P1 và bà Thị H; bị cáo chưa có vợ, con; tiền sự: Ngày 31/8/2023, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 15 tháng, kể từ ngày tiếp nhận cai nghiện ngày 10/8/2023 (theo Quyết định số 23/2023/QĐ-TA); tiền án: không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/12/2022 đến ngày 27/12/2022, hiện nay đang chấp hành cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy đa chức năng tỉnh Kiên Giang. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo Chau P2: Ông Trần Tuấn A1- Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm T1, tỉnh Kiên Giang (có mặt).
Người bị hại:
- Ông Nguyễn Văn C, sinh năm: 1991; địa chỉ: Tổ F, khu phố S, thị trấn H, huyện H, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).
- Ông Trần Ngọc E, sinh năm 1990; địa chỉ: Tổ A, ấp T, xã S, huyện H, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).
- Bà Lê Thị Bé P3, sinh năm 1991; địa chỉ: Tổ A, ấp L, xã L, huyện H, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị R, sinh năm 1981; địa chỉ: ấp H, xã T, huyện H, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Từ thời gian giữa tháng 11 năm 2022 đến ngày 17/12/2022, Trần Văn A và Chau P2 đã cùng nhau thực hiện 03 (ba) vụ trộm cắp xe mô tô trên địa bàn huyện H, tỉnh Kiên Giang, cụ thể như sau:
Vụ thứ 1: Vào khoảng tháng 11 năm 2022 (A và P2 không nhớ ngày cụ thể), khoảng 23 giờ, A nhắn tin rủ P2 qua nhà An chơi, sau đó A đến nhà bà Trần Thị R ở ấp H, xã T, huyện H, tỉnh Kiên Giang (cách nhà A khoảng 100m) hỏi mượn chiếc xe mô tô biển số 68H7-X, A nói bà R cho mượn xe đi mua đồ ăn, sau đó A đến nhà P2 chở P2 về nhà A.
Tại đây, A lấy ma túy ra cùng P2 sử dụng, trong lúc sử dụng ma túy A nói với P2: “Tí đi cùng anh tìm kiếm tài sản để trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài”. A bàn với P2, A điều khiển xe mô tô chở P2 quan sát, khi nào phát hiện xe mô tô để sơ hở thì nói với A, A sẽ vào lấy, P2 canh đường và giữ xe, khi A lấy được xe mô tô A điều khiển chạy về, P2 điều khiển xe mô tô 68H7-X chạy phía sau, A sẽ tìm mối để bán xe mô tô lấy tiền mua ma túy cho P2 sử dụng, nghe A nói P2 đồng ý.
Khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, A điều khiển xe mô tô 68H7-X chở P2 đến địa phận Tổ F, khu phố S, thị trấn H, huyện H thì A phát hiện chiếc xe mô tô biển số 68S1-X của ông Nguyễn Văn C đậu ở trong lề đường trước ngõ đi vào nhà ông Lê Văn D. Lúc này A nói với P2: “Bên kia đường có chiếc Wave”. P2 nói: “Anh qua lấy đi”. A dừng xe lại cách vị trí chiếc xe mô tô 68S 1-X của ông C đậu khoảng 50 m, A giao xe cho P2 và nói: “Mày chạy ra đầu đường chờ tao” P2 điều khiển xe mô tô 68H7-X chạy ra ngã ba L (giao lộ giữa đường tỉnh I với Quốc lộ H) dừng xe đứng đợi, A đi bộ đến vị trí chiếc xe 68s 1-X quan sát thấy chìa khóa xe còn ghim ở ổ khóa, xung quanh không có người, A ngồi lên xe 68S1-X đạp khởi động máy nổ, điều khiển xe chạy ra hướng Quốc lộ H, khi A điều khiển xe đến ngã ba L thì gặp C, cả hai chạy xe về nhà A. A mang chiếc xe mô tô 68S 1-X giấu vào chuồng gà phía sau nhà A, sau đó điều khiển xe 68H7- X chở P2 đến nhà trả xe cho bà R, đến sáng ngày hôm sau, sợ bị phát hiện nên A tháo biển số xe mô tô của ông C, gắn biển số 67EA-X vào xe mô tô của ông C. Do chưa tìm được người mua chiếc xe trên nên A vẫn cất dấu chiếc xe của ông C vào trong chuồng gà nhà A (Bút lục: 148- 153).
Vụ thứ 2: Khoảng 23 giờ ngày 15/12/2022, A hỏi mượn xe mô tô biển số 68H7-X của bà R, A nói cho A mượn xe mua đồ ăn, A điều khiển xe chạy đến nhà P2 chở P2 về nhà A. Tại đây A lấy ma túy ra cùng P2 sử dụng, trong lúc sử dụng ma túy A nói với P2 “Tí đi cùng anh kiếm xe mô tô trộm bán lấy tiền xài”, P2 gật đầu. Khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, A điều khiển xe mô tô 68H7-X chở P2 đến ấp S, xã S, huyện H, A phát hiện xe mô tô biển số 52K6-X của ông Trần Ngọc E đậu phía bên hông căn ki ốt bán gà, vịt của ông Nguyễn Thanh B, A nói với P2 đứng canh đường và giữ xe, nếu có người đi qua thì chạy xe về trước, sau đó A đi bộ đến trước ki ốt của ông B quan sát thấy không ai, A đi đến dẫn chiếc xe của ông E (chiếc xe không sử dụng ổ khóa điện) ra đường cầu 200 nơi P2 đứng đợi, A ngồi lên đạp khởi động máy điều khiển xe chạy về nhà A. A mang chiếc xe mô tô biển số 52K6-X cất giấu vào chuồng gà phía sau nhà A, sau đó điều khiển xe mô tô biển số 68H7-X chở P2 về nhà và chạy xe đến trước cửa nhà bà R trả xe. Đến sáng ngày 16/12/2022, sợ bị phát hiện, An tháo và thay đổi phần đầu gồm: Rè chắn bùn trước, mặt nạ xe, đồng hồ, đèn chiếu sáng của xe mô tô biển số 52K6-X gắn vào xe mô tô biển số 68S1-X và ngược lại, giáp các bộ phận trên của xe mô tô biển số 68S1-X sang xe mô tô biển số 52K6-X, đồng thời tháo bỏ biển số xe mô tô của ông E gắn biển số 67FH-X vào. Sau đó A bán chiếc xe của ông E gắn biển số 67FH-X cho anh Nguyễn Ngọc Đ, sinh năm 1995, cư trú tại ấp B, xã T, huyện H, tỉnh Kiên Giang với giá 700.000 đồng (bảy trăm nghìn đồng) (Bút lục: 153- 157).
Vụ thứ 3: Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 16/12/2022, A đến nhà bà Trần Thị R mượn xe mô tô biển số 68H7-X, A nói với bà R cho A mượn xe chạy đi công việc. Bà R thấy lần nào A mượn xe đi sau đó đều đổ đầy bình xăng cho bà nên khi A đến hỏi mượn xe thì bà R cho mượn. Sau đó, A điều khiển xe mô tô chạy về nhà A. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, A điều khiển xe mục đích đi tìm kiếm xe mô tô sơ hở để đến khuya cùng P2 đi trộm cắp, A phát hiện chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển số 68G1-X của bà Lê Thị Bé P3 đậu ở phía trước sân nhà bà P3 (chìa khóa vẫn còn ghim trong ổ khóa), A dự tính đến khuya sẽ cùng P2 trộm cắp chiếc xe này.
Sau đó A điều khiển xe mô tô về nhà, đến khoảng 23 giờ cùng ngày A đến nhà chở P2 về nhà A. Tại đây A lấy ma túy ra cùng P2 sử dụng, trong lúc sử dụng ma túy A nói với P2: “Tí đi cùng anh vào xã L để lấy xe mô tô”, P2 gật đầu. Đến khoảng 02 giờ ngày 17/12/2022, A điều khiển xe mô tô tiếp tục chở P2 quay lại miếu B6 và nói với P2 ở lại giữ xe và đợi A, còn A đi bộ đến nhà bà P3 đứng quan sát thấy nhà bà P3 đã tắt tivi đi ngủ, ngoài sân vẫn còn 03 xe mô tô, A đi lại vị trí chiếc xe mô tô biển số 68G1-X của bà P3, quan sát xung quanh thấy không có người, chìa khóa xe còn ghim trong ổ khóa, A dẫn xe mô tô biển số 68G1-X ra ngoài đường đan đề máy chạy đến chỗ P2 đứng đợi, A điều khiển xe mô tô biển số 68G1-X chạy trước, P2 điều khiển xe mô tô biển số 68H7-X chạy phía sau, sau đó A mang xe mô tô 68G1-X trộm cắp của bà P3 cất giấu vào chuồng gà phía sau nhà A, rồi điều khiển xe chở P2 về nhà và chạy xe trả cho bà R. Đến sáng ngày 17/12/2022, sợ bị phát hiện trộm cắp xe mô tô của bà P3, do chưa tìm được người mua chiếc xe trên nên A vẫn cất giấu xe ở chuồng gà nhà A (Bút lục: 157- 162).
Đến khoảng 08 giờ ngày 18/12/2022, A điều khiển xe mô tô biển số 67EA- X (xe An trộm cắp của ông C) chở Nguyễn Ngọc Đ đi thành phố R mua ma túy về sử dụng, đến ấp T, xã S, huyện H bị tổ tuần tra Công an huyện H phát hiện, bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và bị khởi tố xét xử ngày 31/05/2023 cho đến nay.
Quá trình điều tra Trần Văn A và Chau P2 thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.
Tại bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 02/KL-HĐĐGTS ngày 02/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện H kết luận:
- Chiếc xe mô tô biển số 68S 1-X An với P2 trộm cắp của ông Nguyễn Văn C vào khoảng giữa tháng 11/2022 có giá trị 2.000.000 đồng (hai triệu đồng).
- Chiếc xe mô tô biển số 52K6-X A và P2 trộm cắp của ông Trần Ngọc E vào ngày 16/12/2022 có giá trị 3.000.000 đồng (ba triệu đồng).
- Chiếc xe mô tô biển số 68G1-X An và P2 trộm cắp của bà Lê Thị Bé P3 vào ngày 17/12/2022 có giá trị 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng) (Bút lục số: 49-42).
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng định giá tài sản.
Về vật chứng của vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện H thu giữ:
- 05 (năm) chiếc cờ lê các loại gồm số 10, 14, 17, 19 và 22; 01 (một) tuốc nơ vít bake là dụng cụ A dùng để tháo, giáp phụ tùng xe mô tô A và P2 trộm cắp được.
- 01 (một) xe mô tô biển số 68S1-X của ông Nguyễn Văn C.
- 01 (một) xe mô tô biển số 52K6-X của ông Trần Ngọc E.
- 01 (một) xe mô tô biển số 68G1-X của bà Lê Thị Bé P3.
- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave, màu sơn Đen Bạc, biển số 68H7-X, không có giấy đăng ký xe, là phương tiện A và P2 sử dụng đi trộm cắp tài sản, trước đó bà R mua chiếc xe này của A với giá 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng), A khai nhận đã mua lại chiếc xe này của Phạm Thế B1, sinh năm 2004, cư trú khu phố T, thị trấn H, huyện H, sau đó bán lại cho bà R. Phạm Thế B1 hiện là bị can trong vụ án trộm cắp tài sản khác, sau khi gây án đã bỏ trốn, hiện Cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã ra quyết định truy nã nhưng chưa bắt được Phạm Thế B1.
Chủ sở hữu chiếc xe mô tô 68H7-X là ông Đoàn Văn C1, sinh năm 1980, cư trú ấp M, xã M, huyện H, tỉnh Kiên Giang. Vào năm 2015, ông C1 đã bán chiếc xe này cho một người đàn ông không rõ họ tên, địa chỉ, không làm thủ tục sang tên, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra quyết định truy tìm người sở hữu chiếc xe mô tô 68H7-X đến nay chưa xác định được.
- 04 (bốn) biển số xe mô tô, gồm:
Biển số 67EA-X An gắn vào xe 68S1-X chiếm đoạt của ông C.
Biển số 67FH-X An gắn vào xe mô tô biển số 52K6-X chiếm đoạt của ông Trần Ngọc E;
Biển số 68D1-X A sử dụng gắn vào xe mô tô biển số 68G1-X chiếm đoạt của bà Lê Thị Bé P3;
Biển số xe 94F2-X An cất giấu trong nhà A.
A khai 04 chiếc biển số trên A lấy tại điểm thu mua phế liệu của ông Vũ Đức H1, sinh năm 1978, cư trú Tổ D, khu phố S, thị trấn H, huyện H, tỉnh Kiên Giang vào thời gian khoảng tháng 8/2022.
Kết quả điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp của các biển số xe như sau:
Biển số 67EA-X là của bà Huỳnh Thị B2, sinh năm 1976, cư trú ấp S, thị trấn C, huyện T, tỉnh An Giang. Vào năm 2012, bà B2 đã bán chiếc xe này cho một người không rõ tên tuổi, địa chỉ, không làm thủ tục sang tên.
Biển số 67FH-X xác định chủ hợp pháp là ông Võ Văn B3, sinh năm 1969, cư trú Tổ 17, khóm c, phường V, thành phố C, tỉnh An Giang. Ông B3 đã chết vào năm 2007, gia đình ông B3 đã chuyển đi nơi khác sinh sống chưa xác định được nơi ở.
Biển số xe 94F2 - X xác định chủ sở hữu hợp pháp là bà Bùi Thị D1, sinh năm 1978, cư trú Khóm B, Phường G, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu. Vào 2004,bà DI đã bán chiếc xe này cho một người không rõ tên tuổi, địa chỉ, không làm thủ tục sang tên.
Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra quyết định truy tìm người sở hữu hợp pháp của các biển số trên hiện chưa có kết quả.
Biển số 68D1-X xác định chủ hợp pháp là bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1975, cư trú ấp s, xã N, huyện H, tỉnh Kiên Giang. Vào tháng 01/2020, bà N điều khiển xe đi công việc bị rơi mất biển số trên, hiện bà N đã làm thủ tục xin cấp biển số khác, hiện nay xe vẫn đang sử dụng.
Tại Cáo trạng số 49/CT-VKS-HĐ ngày 31/7/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang truy tố bị cáo Trần Văn A và bị cáo Chau P2 về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
Về tội danh và hình phạt:
Áp dụng khoản 1, Điều 173, điểm s, khoản 1, Điều 51, điểm g, khoản 1, Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn A từ 18 (mười tám) tháng tù đến 24 (hai mươi tư) tháng tù về tội trộm cắp tài sản; đồng thời áp dụng khoản 1, Điều 56 Bộ luật Hình sự, tổng hợp với hình phạt 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2023/HS-ST ngày 31/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang và buộc bị cáo A phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.
Áp dụng khoản 1, Điều 173; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51, điểm g, khoản 1, Điều 52, Điều 38 và Điều 91 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Chau P2 từ 09 (chín) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù về tội trộm cắp tài sản.
Về hình phạt bổ sung: Do các bị cáo không có việc làm ổn định, không có thu nhập, nên đề nghị miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo theo quy định tại khoản 5, Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Đối với bà Trần Thị R là người 03 lần cho A mượn xe mô tô biển số 68H7-X nhưng cả 03 lần bà đều không biết A mượn chiếc xe trên để làm phương tiện đi trộm cắp tài sản nên bà R không đồng phạm với A và P2 trong vụ án này.
Đối với Nguyễn Ngọc Đ là người mua lại chiếc xe mô tô biển số 52K6-X do A và P2 trộm cắp của ông Trần Ngọc E (sau đó được A thay biển số 67FH - X) với giá 700.000 đồng (bảy trăm nghìn đồng) về sử dụng, khi mua Đ không biết chiếc xe trên do A và P2 trộm cắp mà có, nên khi biết được Đ đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H, do đó ông Đ không phạm tội chứa chấp, hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Về xử lý vật chứng:
- 03 chiếc xe bị cáo A và P2 trộm cắp của các bị hại đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
- Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy:
05 (năm) chiếc cờ lê các loại gồm số 10, 14, 17, 19 và 22; 01 (một) tuốc nơ vít bake là dụng cụ A dùng để tháo, giáp phụ tùng xe mô tô A và P2 trộm cắp được.
01 (một) biển số xe mô tô 68D1-X.
- Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H tạm giữ các vật chứng sau:
01 (một) xe mô tô biển số 68H7-X, chiếc xe này có liên quan trọng vụ trộm cắp tài sản do bị can Phạm Thế B4 thực hiện. Hiện B4 đã bỏ trốn, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra quyết định truy nã. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H tạm giữ đề phục vụ điều tra vụ án trên.
Đối với 03 biển số xe mô tô (Biển số 67EA-X; biển số 67FH-X và biển số 94F2-X), hiện chưa xác định được chủ sở hữu và có bị chiếm đoạt hay không, Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục tạm giữ để điều tra tiếp xử lý theo quy định của pháp luật.
Về trách nhiệm dân sự:
Ông Nguyễn Văn C, ông Trần Ngọc E và bà Lê Thị Bé P3 đã nhận lại xe mô tô bị trộm cắp, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn xét.
Đối với Nguyễn Ngọc Đ mua chiếc xe mô tô biển số 52K6-X do A và P2 trộm cắp của ông trần ngọc Em với giá 700.000 đồng (bảy trăm nghìn đồng), Đ tự giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra không yêu cầu bồi thường nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn xét.
Bà Trần Thị R mua chiếc xe mô tô biển số 68H7-X của A với giá 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng), khi biết A mua chiếc xe này của Phạm Thế B4 là người thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trong một vụ án khác, bà R đã tự nguyện giao nộp xe mô tô biển số 68H7-X cho Cơ quan Cảnh sát điều tra đề phục vụ điều tra, không yêu cầu bồi thường trong vụ án này nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai của các bị cáo tại Cơ quan Cảnh sát điều tra cũng như nội dung bản cáo trạng mà vị đại diện Viện kiểm sát đã công bố.
Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo Chau P2 thống nhất với tội danh mà Viện Kiểm sát truy tố đối với bị cáo Chau P2. Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở địa bàn có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn, trình độ nhận thức văn hóa thấp 02/12, lúc phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi bị rủ rê, lôi kéo phạm tội, do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51 và Điều 91 Bộ luật Hình sự cho bị cáo P2 được hưởng mức án thấp nhất theo đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát.
Lời nói sau cùng của các bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án: Các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:
Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, lời khai của các bị cáo phù hợp lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, phù hợp với bản ảnh hiện trường, bản ảnh tang vật, kết luận định giá tài sản và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ căn cứ xác định hành vi phạm tội của các bị cáo như sau:
Vào giữa tháng 11 năm 2022, A và P2 lén lút trộm cắp tài sản là chiếc xe mô tô biển số 68S1-X của ông Nguyễn Văn C có giá trị 2.000.000 đồng (hai triệu đồng), tại Tổ F, khu phố S, thị trấn H, huyện H, tỉnh Kiên Giang.
Vào ngày 16/12/2022, A và P2 lén lút trộm cắp tài sản là chiếc xe mô tô biển số 52K6-X của ông Trần Ngọc E có giá trị 3.000.000 đồng (ba triệu đồng), tại Tổ A, ấp S, xã S, huyện H, tỉnh Kiên Giang.
Vào ngày 17/12/2022, A và P2 lén lút trộm cắp tài sản là chiếc xe mô tô biển số 68G1-X của bà Lê Thị Bé P3 có giá trị 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng), tại Tổ A, ấp L, xã L, huyện H, tỉnh Kiên Giang.
Như vậy, hành vi lén lút trộm cắp tài sản 03 lần có tổng giá trị 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) của A và P2 đã phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự, do đó Việt Kiểm sát nhân dân huyện H truy tố các bị cáo ra trước Tòa án để xét xử các bị cáo về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:
Bị cáo Trần Văn A là người trưởng thành, có đủ nhận thức để biết quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được Nhà nước bảo vệ và Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm bất hợp pháp quyền sở hữu tài sản của người khác, nhưng vì muốn có tiền tiêu xài, sử dụng tài sản không phải bỏ công sức lao động, bị cáo A đã rủ rê bị cáo P2 03 (ba) lần đi trộm cắp tài sản của các bị hại, tại thời điểm phạm tội P2 là người chưa thành niên, tổng tài sản trộm cắp giá trị 20.000.000 đồng. Do đó, cần xử phạt các bị cáo mức án nghiêm, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đề giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội, biết quý trọng sức lao động của bản thân và của người khác. Trong vụ án này, bị cáo A là người chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội, rủ rê bị cáo P2 đi trộm cắp, là người trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp và tài sản trộm cắp được bị cáo A cũng chính là người cất giữ, tháo giáp phụ tùng xe, thay biển số xe để ngụy trang; còn bị cáo P2 tại thời điểm phạm tội chưa đủ 18 tuổi, là người bị rủ rê, lôi kéo phạm tội, tuy không trực tiếp trộm cắp tài sản nhưng bị cáo là người canh giữ, giúp sức cho bị cáo A hiện hành vi trộm cắp, do đó cần áp dụng chế tài hình sự tương xứng với tính chất, mức độ, vai trò thực hiện hành vi phạm tội của từng bị cáo, cần xử phạt bị cáo A mức án nghiêm khắc hơn bị cáo P2 nhằm giáo dục, cải tạo các bị cáo.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo đều có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: “Phạm tội 02 lần trở lên” được quy định tại điềm g, khoản 1, Điều 52 Bộ luật Hình sự. Mặc dù bị cáo A rủ rê bị cáo P2 trộm cắp tài sản nhưng giữa hai bị cáo không có sự bàn bạc, chuẩn bị hay phân công nhiệm vụ trước, chỉ thống nhất cùng nhau đi tìm kiếm tài sản chủ sở hữu sơ hở trong việc quản lý để trộm cắp, nên việc phạm tội của các bị cáo chỉ mang tính chất đồng phạm giản đơn.
Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các bị cáo thành khẩn khai báo nên xem xét cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Ngoài ra, xét bị cáo P2 là người dân tộc thiểu số (dân tộc Khmer), sống ở địa bàn có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn, trình độ nhận thức văn hóa thấp (02/12) nên xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo, đồng thời xem xét tại thời điểm phạm tội, bị cáo Chau P2 chưa đủ 18 tuổi nên áp dụng nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định tại Điều 91 Bộ luật Hình sự để xem xét, cân nhắc mức hình phạt phù hợp cho bị cáo P2 nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành người công dân có ích cho xã hội.
[5] Về hình phạt bổ sung: Do các bị cáo không có việc làm ổn định, không có thu nhập, bị cáo A đang chấp hành án và bị cáo P2 đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy đa chức năng tỉnh Kiên Giang, nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo theo quy định tại khoản 5, Điều 173 Bộ luật Hình sự.
[6] Xét lời luận tội của vị đại diện Viện Kiểm sát, lời bào chữa của trợ giúp viên pháp lý cho bị cáo Chau P2 phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[7] Về trách nhiệm dân sự:
Ông Nguyễn Văn C, ông Trần Ngọc E và bà Lê Thị Bé P3 đã nhận lại xe mô tô bị trộm cắp, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với Nguyễn Ngọc Đ mua chiếc xe mô tô biển số 52K6-X do A và P2 trộm cắp của ông Trần Ngọc E với giá 700.000 đồng (bảy trăm nghìn đồng), Đ tự giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra, không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Bà Trần Thị R mua chiếc xe mô tô biển số 68H7-X của A bán với giá 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng), khi biết A mua chiếc xe này của Phạm Thế B4 là người thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trong một vụ án khác, bà R đã tự nguyện giao nộp xe cho Cơ quan Cảnh sát điều tra để phục vụ điều tra. Riêng số tiền bà mua xe của A là 1.500.000 đồng, trong quá trình điều tra, truy tố bà yêu cầu gia đình A bồi thường nhưng không xác định cụ thể người bị yêu cầu và số tiền bồi thường, trong quá trình xét xử, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng bà không có mặt tại phiên tòa, do đó trường hợp bà có yêu cầu bồi thường số tiền trên thì bà được quyền khởi kiện trong vụ án dân sự khác.
[8] Về xử lý vật chứng:
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp gồm: 01 (một) xe mô tô biển số 68S1-X trả cho chủ sở hữu hợp pháp ông Nguyễn Văn C; 01 (một) xe mô tô biển số 52K6-X trả cho chủ sở hữu hợp pháp ông Trần Ngọc E; 01 (một) xe mô tô biển số 68G1-X trả cho chủ sở hữu hợp pháp bà Lê Thị B5, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.
Áp dụng điểm a, khoản 1, Điều 46, điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:
- 05 chiếc cờ lê các loại gồm số 10,14,17,19, 22 và 01 tuốt nơ vít bake dụng cụ dùng để tháo, giáp phụ tùng xe mô tô A và Chau P2 chiếm đoạt được.
- 01 (một) biển số xe mô tô 68D1 - X.
Đối với các vật chứng gồm: 01 (một) xe mô tô biển số 68H7- X; 03 (ba) biển số xe mô tô gồm: Biển số 67EA-X; biển số 67FH-X và biển số 94F2- X, Cơ quan CSĐT Công an huyện H đang tạm giữ để tiếp tục điều tra nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[9] Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 299 và khoản 6, Điều 326, Điều 327, Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự;
1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn A và bị cáo Chau P2 phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.
2. Áp dụng khoản 1, Điều 173, điểm s, khoản 1, Điều 51, điểm g, khoản 1, Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Trần Văn A 18 (mười tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1, Điều 56 Bộ luật Hình sự, tổng hợp với hình phạt 02 (hai) năm tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2023/HS-ST ngày 31/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang, buộc bị cáo Trần Văn A phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 18/12/2022.
Áp dụng khoản 1, Điều 173, điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51, điểm g, khoản 1, Điều 52, Điều 38 và Điều 91 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Chau P2 09 (chín) tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án nhưng bị cáo được trừ thời gian bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/12/2022 đến ngày 27/12/2022.
3. Về trách nhiệm dân sự:
Bà Trần Thị R mua chiếc xe mô tô biển số 68H7-X của Trần Văn A bán với giá 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng), trường hợp bà có yêu cầu bồi thường thiệt hại thì được quyền khởi kiện Trần Văn A trong vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật.
4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điềm a, khoản 1, Điều 46, điềm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:
- 05 chiếc cờ lê các loại gồm số 10, 14, 17, 19, 22 và 01 tuốt nơ vít bake dụng cụ dùng để tháo, giáp phụ tùng xe mô tô A và Chau P2 chiếm đoạt được.
- 01 (một) biển số xe mô tô 68D1 - X.
5. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo Trần Văn A và bị cáo Chau P2 mỗi người phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
6. Về quyền kháng cáo: Báo cho các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 46/2023/HS-ST
| Số hiệu: | 46/2023/HS-ST |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hòn Đất - Kiên Giang |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Ngày ban hành: | 19/09/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về