Bản án về tội trộm cắp tài sản số 46/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 46/2022/HS-ST NGÀY 22/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 9 năm 2022. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 45/2022/TLST- HS ngày 31 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Thái B; Sinh ngày: 21/6/2005, (đến ngày thực hiện hành vi phạm tội bị cáo mới 16 tuổi 10 tháng 11 ngày) tại T, Phú Thọ; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: khu B, xã Y, huyện T, tỉnh Phú Thọ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Dao; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Con ông Lê Văn H, sinh năm 1984 và bà Lê Thị L, sinh năm 1986; Vợ, Con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo:

Ông Lê Văn H, sinh năm 1984; Bà Lê Thị L, sinh năm 1986 Đều có địa chỉ: Khu B, xã Y, huyện T, tỉnh Phú Thọ;

- Người bào chữa cho bị cáo:

Bà Đinh Thị H – Trợ giúp viên thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Phú Thọ.

- Người bị hại: Anh Lê Văn C, sinh năm 2002 Địa chỉ: Khu B, xã Y, huyện T, tỉnh Phú Thọ; Người B vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: ông Bùi Đức D – Trợ giúp viên thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Phú Thọ.

(Bị cáo B, ông H, bà L, bà H, anh C, ông D đều có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 02/5/2022, Lê Thái B, (sinh ngày:

21/6/2005, HKTT: Khu B, xã Y, huyện T, tỉnh Phú Thọ) tự ý điều khiển xe môtô BKS: 19C1-xxxxx nhãn hiệu Honda Wave α của ông Lê Văn H, (sinh năm:1984, HKTT:Khu B, xã Y, huyện T, tỉnh Phú Thọ) (ông H là bố đẻ của B) đi lên nhà ông Lê Văn Xuân, (sinh năm: 1976, HKTT: Khu B, xã Y, huyện T, tỉnh Phú Thọ) để lấy giầy đá bóng mà B để ở nhà ông X từ trước. Khi đến nhà ông X, B để xe mô tô tại sân nhà ông X rồi đi bộ sang nhà anh Lê Văn C, (sinh năm: 2002 ở khu B, xã Y, huyện T, tỉnh Phú Thọ) (anh C là anh họ của B, nhà anh C gần nhà ông X) mục đích rủ anh C đi đá bóng. Khi đến nhà anh C, B thấy cửa nhà anh C khép, không khóa, B gọi anh C thì không thấy anh C trả lời. Sau đó B đã tự ý mở cửa đi vào nhà anh C. Khi đi vào nhà anh C, B không thấy ai ở trong nhà. Lúc này, B nhìn thấy trên phản gỗ trải đệm hoa văn màu đỏ kê tại gian phòng khách nhà anh C có để 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 vỏ màu đỏ nên đã nảy sinh ý định lấy trộm chiếc điện thoại này để mang về sử dụng. Lợi dụng việc nhà anh C không có ai ở nhà, B đi đến vị trí phản gỗ lấy trộm chiếc điện thoại rồi cất vào túi quần bên trái B đang mặc trên người và đi ra khỏi nhà anh C, sau đó đóng cửa lại như ban đầu rồi đi bộ lên nhà ông X và điều khiển xe mô tô đi về nhà. Khi đi về tới nhà, B lấy điện thoại vừa trộm được của anh C ra và mở mật khẩu của điện thoại là “0000”(Do B và anh C thường xuyên đi chơi với nhau và có một số lần B mượn điện thoại của anh C thì anh C có đọc mật khẩu điện thoại để B mở nên B nhớ mật khẩu anh C cài đặt là “0000”). Sau khi mở được điện thoại của anh C, B tháo sim điện thoại của Chung vứt vào hàng cây bờ rào trước cửa nhà mình rồi đăng nhập ICLOUD của B là Lebaoboxo2021@gmail.com có mật khẩu Nokia123@. Sau đó B cài đặt lại mật khẩu điện thoại là “000000” và đăng xuất, tắt nguồn điện thoại rồi B mở tủ quần áo kê tại gian phòng khách nhà mình lấy 01 chiếc túi nilon màu trắng mặt ngoài có in nhiều chữ màu xanh gói chiếc điện thoại lại rồi cầm chiếc điện thoại này cất giấu tại vị trí gốc bụi chuối gần tường rào ở vườn nhà ông Lê Văn Thuận, (sinh năm: 1955, HKTT: Khu B, xã Y, huyện T, tỉnh Phú Thọ) (ông Thuận là ông nội của B).

Ngày 03/5/2022, sau khi sự việc xảy ra, Lê Văn C đã trình báo Công an xã Y, huyện T đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật. Công an xã Y đã chuyển nguồn tin về tội phạm đến Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện T giải quyết theo quy định.

Sau khi tiếp nhận, thụ lý vụ việc, Cơ CSĐT Công an huyện T phối hợp cùng Viện kiểm sát nhân dân huyện T và các cơ quan chức năng trên địa bàn đã tiến hành khám nghiệm hiện trường; truy tìm và thu giữ vật chứng theo đúng quy định. Ngày 03/5/2022, bà Lê Thị L (là mẹ đẻ của Lê Thái B) đã giao nộp 01 chiếc điện thoại di động Iphone 11 màu đỏ, đã qua sử dụng; 01 túi nilon màu trắng, mặt ngoài túi có in nhiều chữ màu xanh.

Cơ quan CSĐT - Công an huyện T đã trưng cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T để xác định giá trị 01 chiếc điện thoại di động Iphone 11 màu đỏ, đã qua sử dụng; 01 sim điện thoại Viettel, có số thuê bao 0346.792.xxx mà Lê Thái B đã trộm cắp của anh Lê Văn C. Ngày 06/5/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T đã định giá và kết luận: 01 chiếc điện thoại di động Iphone 11 màu đỏ, đã qua sử dụng có giá 8.000.000 đồng; 01 sim điện thoại Viettel, có số thuê bao 0346.792.xxx có giá 50.000 đồng.

Ngày 16/6/2022, Cơ quan CSĐT - Công an huyện T ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự và Quyết định khởi tố bị can đối với Lê Thái B về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Đồng thời ra Quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho người đại diện giám sát do thời điểm phạm tội Lê Thái B mới được 16 tuổi 10 tháng 11 ngày. Quyết định khởi tố bị can đã được Viện kiểm sát nhân dân huyện T phê chuẩn để tiến hành điều tra.

Tại Cơ quan CSĐT Lê Thái B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên, phù hợp với những tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan CSĐT - Công an huyện T đã thu thập. Quá trình làm việc với Cơ quan CSĐT, Lê Thái B đã chỉ nơi cất giấu chiếc điện thoại B đã lấy trộm của anh C cho ông Lê Văn H biết, ông H đã điện thoại cho bà Lê Thị L (là mẹ đẻ của B) và B bà L đến vị trí B cất giấu điện thoại mang đến giao nộp cho Cơ quan CSĐT.

Ngày 25/6/2022 bị cáo và gia đình đã bồi thường cho anh C giá trị chiếc điện thoại di động Iphone 11 màu đỏ, đã qua sử dụng là 8.000.000 đồng, anh C đã nhận đủ tiền và không có yêu cầu gì khác, tại phiên tòa anh C tự nguyện giao chiếc điện thoại trên cho bị cáo sở hữu và đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đối với xe mô tô BKS: 19C1-xxxxx nhãn hiệu Honda Wave α của ông Lê Văn H, ngày 02/5/2022 Lê Thái B tự ý lấy để đi mục đích là đi lấy giầy đá bóng, chứ không phải sử dụng để đi trộm cắp tài sản. Khi đi bộ xuống nhà Lê Văn C, rủ Chung đi đá bóng nhưng thấy không có ai ở nhà, điện thoại để ở phản gỗ gian phòng khách nên mới nảy sinh ý định trộm cắp tài sản do vậy mô tô trên không phải là phương tiện phạm tội và không phải là vật chứng vụ án nên cơ quan điều tra không tạm giữ đối với chiếc xe mô tô BKS: 19C1-xxxxx của ông Lê Văn H.

Tại bản Cáo trạng số 48/CT-VKSTT ngày 30/8/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo Lê Thái B về tội "Trộm cắp tài sản" quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử Căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, s Khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2 Điều 47; Điều 91; Điều 100 Bộ luật Hình sự năm 2015. Khoản 1 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự Xử phạt bị cáo Lê Thái B từ 06 đến 09 tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Uỷ ban nhân dân xã Y, huyện T, tỉnh Phú Thọ nhận được Quyết định thi hành án và bản sao Bản án. Giao bị cáo Lê Thái B cho Uỷ ban nhân dân xã Y, huyện T, tỉnh Phú Thọ giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã Y trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Không khấu trừ thu nhập của bị cáo.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Xác nhận bị cáo đã bồi thường cho bị hại giá trị chiếc điện thoại di động Iphone 11 màu đỏ, đã qua sử dụng là 8.000.000đ (Tám triệu đồng).

Về vật chứng: Trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại di động Iphone 11 màu đỏ, đã qua sử dụng.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo cải tạo tại địa phương, gia đình cam kết có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo nhất trí với cáo trạng và đề nghị của Viện kiểm sát về tội danh và điều khoản truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội. Xử phạt bị cáo mức thấp nhất theo đề nghị của Kiểm sát viên. Trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại di động Iphone 11 màu đỏ, đã qua sử dụng vì bị cáo đã bồi thường cho bị hại giá trị chiếc điện thoại.

Người bị hại đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được cải tạo tại địa phương; Trả lại chiếc điện thoại di động Iphone 11 màu đỏ, đã qua sử dụng vì bị cáo đã bồi thường cho bị hại giá trị chiếc điện thoại.

Người B vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: ông Bùi Đức D đã phân tích, đánh giá toàn bộ nội dung vụ án, các căn cứ pháp lý và đề nghị HĐXX chấp nhận theo đề nghị của người bị hại tại phiên tòa.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất hối hận về hành vi vi phạm pháp luật của bị cáo, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo cải tạo tại địa phương để lấy đó làm bài học cho bản thân.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người đại diên và người bào chữa cho bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu, thừa nhận nội dung cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan sai. Lời khai nhận của bị cáo tại cơ quan điều tra và lời khai tại phiên toà đều thống nhất với nhau, phù hợp với vật chứng thu giữ được, phù hợp lời khai của người bị hại và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 13 giờ 30 ngày 02/5/2022, tại khu B, xã Y, huyện T, tỉnh Phú Thọ, Lê Thái B (sinh ngày: 21/6/2005, thường trú tại: khu B, xã Y, huyện T) đã thực hiện hành vi lén lút để trộm cắp của anh Lê Văn C, (sinh năm 2002, thường trú tại: khu B, xã Y, huyện T) 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 màu đỏ trị giá 8.000.000 đồng và 01 sim viettel, số sim 0346.792.xxx trị giá 50.000 đồng. Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo Lê Thái B đã bị cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện T phát hiện và điều tra làm rõ.

Hành vi của Lê Thái B là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, vi phạm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, hành vi đó cần phải xử lý bằng pháp luật hình sự để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự có khung hình phạt đến 3 năm tù. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng, mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn. Tuy nhiên hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự trong khu vực, tạo nên tâm lý hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân trong việc trông giữ, B vệ tài sản của mình. Với lỗi cố ý bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật Hình sự B vệ. Mặc dù khi phạm tội bị cáo là người dưới 18 tuổi nhưng bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản là hành vi vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Nguyên nhân do bị cáo đua đòi, muốn có chiếc điện thoại hiện đại hơn để sử dụng phục vụ nhu cầu bản thân nên đã có hành vi trộm cắp tài sản của chính người thân của bị cáo dẫn đến vi phạm pháp luật. Do đó cần xử phạt bị cáo bằng pháp luật hình sự, mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần xem xét đến các yếu tố: Bị cáo là người chưa thành niên phạm tội, phần nhận thức pháp luật còn hạn chế, phạm tội một phần do sự lỏng lẻo trong quản lý, giáo dục của gia đình, hơn nữa nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành người công dân có ích cho xã hội, để xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[3] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình, bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Bị cáo đã bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại số tiền 8.000.000 đồng, tại phiên tòa người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, điểm i, điểm s Khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, hiện đang sống cùng bố mẹ, bị cáo có nơi cư trú ổn định rõ ràng, Hội đồng xét xử xét thấy không cần cách ly bị cáo khỏi xã hội, mà xử phạt bị cáo hình phạt cải tạo không giam giữ cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt.

Xét cần chấp nhận các ý kiến đề nghị của người đại diện hợp pháp và người bào chữa cho bị cáo, người bị hại về giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nhằm giáo dục, giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh. Đến ngày phạm tội bị cáo B mới được 16 tuổi 10 tháng 11 ngày, (dưới 18 tuổi) là người chưa thành niên phạm tội, nên cần căn cứ các Điều 90, Điều 91, Điều 98, Điều 100 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung và khấu trừ thu nhập:

Bị cáo là người chưa thành niên phạm tội (dưới 18 tuổi), do đó không áp dụng hình phạt bổ sung và khấu trừ thu nhập đối với bị cáo theo quy định tại khoản 6 Điều 91 và khoản 2 Điều 100 Bộ luật Hình sự.

[5]Về trách nhiệm dân sự:

Bị cáo đã bồi thường cho bị hại là anh Lê Văn C giá trị chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11số tiền 8.000.000 đồng, anh C đã nhận đủ số tiền trên và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm. Do đó Hội đồng xét xử cần xác nhận.

[6] Về Xử lý vật chứng vụ án:

Đối với sim điện thoại số 0346.792.xxx đến thời điểm hiện tại Cơ quan CSĐT vẫn chưa tìm được sim điện thoại này do đó không đề cập xử lý trong vụ án này Đối với một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11, vỏ màu đỏ, điện thoại cũ đã qua sử dụng, do bị cáo đã bồi thường cho bị hại giá trị chiếc điện thoại là 8.000.000 đồng, bị hại đã nhận đủ số tiền trên và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm và nhất trí giao chiếc điện thoại trên cho bị cáo sử dụng; HĐXX xét thấy cần giao chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11, vỏ màu đỏ đã qua sử dụng của anh Lê Văn C cho bị cáo sở hữu là phù hợp;

Đối với 01 túi nilon màu trắng, mặt ngoài túi có in nhiều chữ màu xanh không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, người đại diện hợp pháp, người bào chữa cho bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[8] Đề nghị của kiểm sát viên VKSND huyện T tại phiên toà cơ bản là phù hợp nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, s Khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 90; Điều 91; Điếu 98; Điều 100 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Thái B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Lê Thái B 06 (Sáu) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Uỷ ban nhân dân xã Y, huyện T, tỉnh Phú Thọ nhận được Quyết định thi hành án và bản sao Bản án. Giao bị cáo Lê Thái B cho Uỷ ban nhân dân xã Y, huyện T, tỉnh Phú Thọ giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã Y trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì việc giám sát, giáo dục bị cáo được thực hiện theo điều 100 Luật Thi hành án Hình sự.

Không áp dụng hình phạt bổ sung và không khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Lê Thái B Về trách nhiệm dân sự:

Xác nhận: Bị cáo Lê Thái B đã bồi thường giá trị chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 cho anh Lê Văn C số tiền là 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng), anh C đã nhận đủ số tiền trên và tự nguyện giao chiếc điện thoại trên cho bị cáo sở hữu, ngoài ra không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì khác.

Về vật chứng: Căn cứ khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 1, điểm c, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Trả lại cho bị cáo Lê Thái B: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11, vỏ màu đỏ, điện thoại cũ đã qua sử dụng để sở hữu;

Tịch thu tiêu hủy 01 một túi nilon màu trắng, mặt ngoài túi có in nhiều chữ màu xanh.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Lê Thái B phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện và người bào chữa cho bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 46/2022/HS-ST

Số hiệu:46/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Nông - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;