Bản án về tội trộm cắp tài sản số 46/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 46/2022/HS-ST NGÀY 24/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 01 năm 2022, Tòa án nhân dân thành phố N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 432/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Duy Hạnh C - sinh ngày 14/5/2001 tại Khánh Hòa; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: thôn Đ - xã T - tp. N - Khánh Hòa; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Duy P (chết) và bà Nguyễn Thị Mỹ H (chết); Tiền sự, tiền án: không; Nhân thân: bản án số 08/2022/HSST ngày 10/01/2022, Tòa án nhân dân tp. N xử phạt 01 năm tù về tội “Chống người thi hành công vụ”; Tạm giam trong vụ án khác; Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Trần Quang P - sinh năm 1988; Vắng mặt.

Trú tại: 23/3 đường X - phường S - thành phố N - Khánh Hòa.

2. Nguyễn T - sinh năm 1957; Có mặt.

Trú tại: thôn Xuân Phong - xã P - thành phố N - Khánh Hòa.

3. Nguyễn Văn H - sinh năm 1981; Vắng mặt.

Trú tại: thôn X - xã P - thành phố N - Khánh Hòa.

4. Lê Tất H - sinh năm 1995; Có mặt.

Trú tại: 85/6/13 đường S - phường S - thành phố N - Khánh Hòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Nguyễn Quốc B - sn 1956 Trú tại: 147 đường N - phường T - thành phố N - Khánh Hòa; Vắng mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người làm chứng: Bùi Trọng T - sinh năm 1966; Vắng mặt.

Đinh Thị Mai L - sinh năm 1969; Vắng mặt. Nguyễn Văn P - sinh năm 1977; Vắng mặt. Nguyễn Văn T - sinh năm 1998; Vắng mặt.

Nguyễn Hoài V - sinh năm 1982; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 45 phút, ngày 26/5/2021, Nguyễn Duy Hạnh C đi bộ đến khu vực phường S - tp. N xem ai để tài sản sơ hở thì trộm cắp. Khi đến trước cửa hàng sắt N (126 đường 23 - phường S - thành phố N) thì C nhìn thấy 01 xe máy hiệu Honda Wave màu đen, biển kiểm soát 79H4-4849 của anh Trần Quang P, đang dựng trước nhà, không có ai trông giữ. Thấy vậy, C lén lút đi đến ngồi lên xe máy rồi lấy 01 chìa khóa đút vào ổ khóa xe máy để phá khóa thì bị anh P phát hiện truy hô. Nghe tiếng truy hô, ông Bùi Trọng T phối hợp cùng với anh P bắt giữ C cùng tang vật giao cho Công an phường S lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại cơ quan Công an, Nguyễn Duy Hạnh C đã khai nhận ngoài vụ trộm cắp tài sản trên, C còn thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản khác, cụ thể:

Vụ th ứ nh ất : Khoảng 08 giờ 00 phút, ngày 25/5/2021, C đi bộ đến quán café M (thôn T - xã T - thành phố N) thì phát hiện xe máy hiệu Best, biển kiểm soát 79F2-2690 của ông Nguyễn T đang dựng trước quán, trên xe có gắn chìa khóa. Quan sát không thấy ai trông giữ, C lén lút đi đến mở khóa xe rồi điều khiển xe đi đến trước tiệm phế liệu (19 đường L - phường P - thành phố N) bán cho một người đi đường (không rõ lai lịch) với giá 600.000đ Vụ th ứ hai:

Khoảng 17 giờ 00 phút, ngày 25/5/2021, C đi bộ đến trước cửa hàng ga T (147 đường T - phường P - thành phố N) thì phát hiện xe máy hiệu Shozuka, biển kiểm soát 79L3-8059 của ông Nguyễn Văn H đang dựng trước cửa hàng, trên xe còn gắn chìa khóa. Quan sát không thấy ai trông giữ, C lén lút đi đến mở khóa xe rồi điều khiển xe đi đến tiệm phế liệu 19 đường L - phường P - thành phố N bán cho Nguyễn Văn T với giá 400.000đ.

Vụ t h ứ b a : Khoảng 18 giờ 00 phút, ngày 07/6/2021, C đi bộ đến trước Công ty chuyển phát nhanh J&T Express (15 đường 23 - phường S - thành phố N) thì phát hiện xe máy hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 79N1-845.30 của anh Lê Tất H đang dựng trước công ty, trên xe còn gắn chìa khóa. Quan sát không thấy ai trông giữ, C lén lút đi đến mở khóa xe rồi điều khiển xe đi đến đường Đ - p. S - tp. N nhờ một người tên S (không rõ nhân thân lai lịch) bán được 700.000đ.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 200/KL-HĐĐGTS ngày 27/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản - Ủy ban nhân dân thành phố N kết luận: xe máy hiệu Honda Wave 79H4-4849 có giá trị 3.200.000đ.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 296/KL-HĐĐGTS ngày 11/8/2021 của Hội đồng định giá tài sản - Ủy ban nhân dân thành phố N kết luận: 01 xe máy hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 79N1-845.30 có giá trị 7.410.000đ. 01 xe máy hiệu Best, biển kiểm soát 79F2-2690 có giá trị 3.000.000đ. 01 xe máy hiệu Shozuka, biển kiểm soát 79L3-8059 có giá trị 3.000.000đ.

Tại bản cáo trạng số 345/CT-VKSNT ngày 04/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã truy tố bị cáo Nguyễn Duy Hạnh C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N - tỉnh Khánh Hòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo C từ 01 năm 6 tháng tù đến 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại T và H không yêu cầu nên đề ghị Hội đồng xét xử không xem xét; bị hại Phú và Hòa vắng mặt nên đề nghị tách ra giái quyết bằng vụ kiện dân sự khác khi bị hại yêu cầu. Về vật chứng: đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy 01 chìa khóa xe máy dài 5cm, cán nhựa màu đen và tịch thu sung quỹ Nhà nước 435.000đ. Về án phí: đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình giải quyết vụ án, các Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, bị hại Trần Quang P, Nguyễn Văn H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Quốc B và những người làm chứng đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Tuy nhiên, hồ sơ thể hiện rõ lời khai của những người này nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt.

[3] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xác định lợi dụng sự sơ hở của bị hại trong việc quản lý tài sản, bị cáo C đã nhiều lần thực hiện việc trộm cắp tài sản, cụ thể: 08 giờ 00 phút, ngày 25/5/2021, bị cáo trộm cắp một xe máy hiệu Best, biển kiểm soát 79F2-2690 của ông Nguyễn T. 17 giờ 00 phút, ngày 25/5/2021, bị cáo trộm cắp một xe máy hiệu Shozuka, biển kiểm soát 79L3-8059 của ông Nguyễn Văn H. Ngày 26/5/2021, bị cáo lấy trộm một xe máy hiệu Honda Wave màu đen, biển kiểm soát 79H4-4849 của anh Trần Quang P. Ngày 07/6/2021, bị cáo lấy trộm một xe máy hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 79N1- 845.30 của anh Lê Tất H. Tổng giá trị của 04 vụ trộm cắp tài sản bị cáo thực hiện là 16.610.000đ. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố bị cáo với tội danh “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của tổ chức, cá nhân được pháp luật hình sự bảo vệ. Bị cáo là thanh niên khỏe mạnh, không làm việc chân chính để nuôi sống bản thân mà lấy việc trộm cắp tài sản của người khác để có tiền tiêu xài cá nhân. Trong một thời gian ngắn, bị cáo đã thực hiện liên tiếp 04 vụ trộm cắp tài sản. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt thật nghiêm khắc, áp dụng tình tiếp “phạm tội 02 lần trở lên” đối với bị cáo mới đảm bảo tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo để bị cáo nhận thấy được chính sách khoan hồng của Nhà nước mà yên tâm cải tạo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa hôm nay, bị hại là ông Nguyễn T và anh Lê Tất H không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét. Bị hại Trần Quang P vắng mặt tại phiên tòa nhưng hồ sơ thể hiện anh Phú đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét. Bị hại Nguyễn Văn H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Quốc B vắng mặt nên tách phần trách nhiệm dân sự giữa bị cáo với các ông H và ông B ra thành vụ kiện dân sự khác khi bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu.

[6] Về vật chứng: 01 chìa khóa xe máy, dài khoảng 5cm, cán bằng nhựa màu đen, bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy. 435.000đ là tiền bị cáo có được do bán tài sản trộm cắp nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Duy Hạnh C.

Xử phạt : bị cáo Nguyễn Duy Hạnh C 02 (hai) năm tù về tội Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự : Không xét phần trách nhiệm dân sự giữa bị cáo Nguyễn Duy Hạnh C với bị hại Trần Quang P, Nguyễn T, Lê Tất H.

Tách phần trách nhiệm dân sự giữa bị cáo Nguyễn Duy Hạnh C với bị hại Nguyễn Văn H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Quốc B thành vụ kiện dân sự khác khi bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu.

Về vật chứng : Áp dụng khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) chìa khóa xe máy dài 5cm, cán nhựa màu đen có ghi chữ “Honda”.

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/12/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an tp. N với Chi cục thi hành án dân sự tp. N).

Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 435.000đ (Bốn trăm ba mươi lăm nghìn đồng) theo giấy nộp tiền vào ngân sách Nhà nước số 4099170 ngày 18/11/2021 với nội dung khoản nộp “Vụ Nguyễn Duy Hạnh C 2001 trú thôn Đ - xã T - thành phố N trộm cắp tài sản”, người nộp Công an tp. N (người nộp thay Phan Thiện Hưng).

Về án phí : Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Nguyễn Duy Hạnh C nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 46/2022/HS-ST

Số hiệu:46/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;