Bản án về tội trộm cắp tài sản số 46/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG – THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 46/2022/HS-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 28/2022/TLST-HS ngày 17 tháng 3 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2022/QĐXXST-HS ngày 13/4/2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn M (Tên gọi khác: M B), sinh năm 1978 tại Ninh Thuận; Nơi cư trú: Khu phố 5, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa 03/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn C (đã chết) và bà Huỳnh Thị N (đã chết); Vợ, con: chưa có. Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân:

- Ngày 02/11/2007, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đến ngày 17/01/2009 được đặc xá tha tù;

- Ngày 26/10/2010, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xử phạt 12 tháng tù về “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, đến ngày 15/9/2011 chấp hành xong hình phạt tù.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/12/2021, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an TP. Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận (có mặt).

2. Phạm Văn Đ (tên gọi khác: U), sinh năm 2000 tại Bình Thuận; Nơi cư trú: Tổ 1, thôn Tân Hòa, xã Sông Bình, huyện Bắc B, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa: 0/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn Đ và bà Võ Thị S; Vợ, con:

chưa có. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 25/12/2020, bị Công an huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận khởi tố về “Tội trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/12/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận (có mặt).

Người bị hại: Công ty TNHH thương mại và xây dựng S.

Địa chỉ trụ sở: Số 107 T, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Đinh A – chức vụ: Giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đàng Năng T – Chỉ huy trưởng công trình.

Nơi cư trú: Khu phố Mỹ Nghiệp, thị trấn P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận (Giấy ủy quyền ngày 08/12/2021) (xin xét xử vắng mặt).

Người làm chứng:

1. Ông Hồ Ngọc T, sinh năm: 1984.

Nơi cư trú: Khu phố 1, phường M, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt)

2. Ông Võ Hồng V, sinh năm: 1964.

Nơi cư trú: Khu phố 1, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt).

3. Ông Nguyễn Văn B, sinh năm: 1970.

Nơi cư trú: Khu phố 5, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 03 giờ ngày 05/12/2021, do không có tiền tiêu xài nên Nguyễn Văn M rủ Phạm Văn Đ trộm cắp tài sản, Đ đồng ý. M điều khiển xe mô tô biển số: 85V3- 3690, hiệu Talent, màu xanh, chở Đ đến phía sau Bảo tàng tỉnh Ninh Thuận, thuộc khu phố 1, phường Tấn Tài, TP. Phan Rang - Tháp Chàm. Tại đây, thấy công trình đang thi công của Công ty TNHH TM & XD Sơn Long Thuận có để nhiều tấm ván ép cốt pha có 02 thanh sắt vuông kích thước (0,5m x 0,5m) trên vỉa hè, không có người trông coi nên cả hai dừng xe lại đến lấy 04 tấm ván ép cốt pha bỏ lên xe mô tô, M điều khiển xe chở cốt pha và Đ về nhà của M ở khu phố 5, phường Đạo Long, TP. Phan Rang - Tháp Chàm cất giấu. Sau đó, M và Đ tiếp tục quay lại công trình lấy 03 tấm ván ép cốt pha chở về nhà M cất giấu. Cũng bằng thủ đoạn như trên, M và Đ tiếp tục quay lại công trình lấy thêm 03 tấm ván ép cốt pha rồi chở về nhà M. Khi đang đi trên đường Thống Nhất, thuộc khu phố 4, phường Đạo Long, TP. Phan Rang - Tháp Chàm thì bị Tổ tuần tra Công an phường Đạo Long phát hiện; tạm giữ: 03 tấm ván ép cốt pha có 02 thanh sắt vuông; 01 xe mô tô, biển số: 85V3-3690, 01 điện thoại di động cảm ứng, hiệu Samsung, màu xanh đen; 01 Đăng ký mô tô, xe máy mang tên Võ Hồng V, sinh năm: 1964, trú tại: Khu phố 1, phường Đô Vinh, TP. Phan Rang - Tháp Chàm; số tiền 280.000 đồng. Lực lượng Công an đã mời M, Đ về trụ sở để làm việc. Tại Cơ quan điều tra, M và Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 104/KLTS ngày 07/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm xác định: 10 tấm ván ép cốt pha có 02 thanh sắt vuông kích thước (0,5m x 0,5m), trị giá: 3.794.710 đồng.

Ngoài ra, Nguyễn Văn M, Phạm Văn Đ còn khai nhận đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 tủ bán vé số, có mặt kính, kích thước (100x50x80)cm ở phường Kinh Dinh; 01 tủ sắt, kích thước (120x60x100)cm ở phường Mỹ Bình, TP. Phan Rang - Tháp Chàm. Quá trình điều tra, chưa xác định được chủ sở hữu đối với những tài sản trên. Hiện Cơ quan điều tra đã ban hành thông báo tìm kiếm chủ sở hữu, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung vụ án đã nêu. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến, hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng định giá nêu trên.

Bản cáo trạng số 33/CT-VKSPRTC ngày 17/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân TP. Phan Rang – Tháp Chàm truy tố các bị cáo Nguyễn Văn M và Phạm Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. Phan Rang – Tháp Chàm giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn M và Phạm Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M và Phạm Văn Đ mức án từ 09 tháng đến 12 tháng tù đối với mỗi bị cáo.

Các bị cáo không tranh luận; Lời nói sau cùng: các bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai trái và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TP. Phan Rang – Tháp Chàm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP. Phan Rang – Tháp Chàm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đại diện hợp pháp của người bị hại là ông Đàng Năng Triết xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử xét thấy người bị hại đã nhận lại toàn bộ tài sản và không yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự, việc vắng mặt đại diện người bị hại không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt đại diện theo uỷ quyền của người bị hại là đúng quy định pháp luật.

[3] Tại phiên tòa sơ thẩm, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại và các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 03 giờ ngày 05/12/2021, tại phía sau Bảo tàng tỉnh Ninh Thuận, thuộc khu phố 1, phường Tấn Tài, TP. Phan Rang - Tháp Chàm, Nguyễn Văn M và Phạm Văn Đ đã cùng nhau thực hiện hành vi trộm cắp 10 tấm ván ép cốt pha có gắn 02 thanh sắt vuông kích thước (0,5m x 0,5m) của Công ty TNHH TM & XD Sơn Long Thuận, trị giá: 3.794.710 đồng (Ba triệu bảy trăm chín mươi bốn ngàn bảy trăm mười đồng). Viện kiểm sát nhân dân TP. Phan Rang – Tháp Chàm truy tố các bị cáo Nguyễn Văn M và Phạm Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội: Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là trái pháp luật nhưng do mục đích tư lợi nên vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương.

Đây là vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, để có cơ sở lượng hình chính xác, phù hợp cần thiết phải đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, vai trò và nhân thân đối với từng bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân các bị cáo: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Các bị cáo có tình tiết giảm nhẹ: phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, quá trình điều tra cũng như tại phiên toà các bị cáo thành khẩn khai báo nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về vai trò và hình phạt: Bị cáo Nguyễn Văn M là người rủ rê bị cáo Đ đi trộm cắp tài sản và trực tiếp thực hiện tội phạm một cách tích cực, bị cáo M có nhân thân xấu, vào các năm 2007 và 2010 bị cáo M đã bị Toà án nhân dân TP. Phan Rang – Tháp Chàm xử phạt tù về tội “Trộm cắp tài sản” “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” nhưng M không chịu tu dưỡng, rèn luyện để trở thành công dân tốt, nay lại tiếp tục phạm tội trộm cắp tài sản nên phải chịu hình phạt cao hơn bị cáo Đ.

Đối với bị cáo Đ, sau khi được M rủ rê trộm cắp tài sản đã tham gia thực hiện tội phạm một cách tích cực. Bị cáo Đ có nhân thân xấu, ngoài lần phạm tội này ngày 25/12/2020, bị cáo Đ hiện đang bị Công an huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận khởi tố về “Tội trộm cắp tài sản”, sau khi phạm tội bị cáo bỏ trốn khỏi địa phương và đang bị truy nã, trong thời gian trốn truy nã lại thực hiện hành vi trộm cắp nên cần phải có hình phạt tương xứng để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung là phù hợp quy định của pháp luật.

Ngoài ra, Nguyễn Văn M, Phạm Văn Đ còn khai nhận đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 tủ bán vé số, có mặt kính, kích thước (100x50x80)cm ở phường Kinh Dinh; 01 tủ sắt, kích thước (120x60x100)cm ở phường Mỹ Bình, TP. Phan Rang - Tháp Chàm. Quá trình điều tra, chưa xác định được chủ sở hữu đối với những tài sản trên. Hiện Cơ quan điều tra đã ban hành thông báo tìm chủ sở hữu, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là có căn cứ.

[7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã tạm giữ và trao trả lại Công ty TNHH TM & XD Sơn Long Thuận 10 tấm ván ép cốt pha có 02 thanh sắt vuông kích thước (0,5m x 0,5m) là tang vật của vụ án.

Quá trình điều tra xác định, xe mô tô, hiệu Talent, màu xanh, biển số: 85V3- 3690, số máy: 2FMH-X013961, số khung: 1UM7X-013961 và 01 Đăng ký mô tô, xe máy mang tên Võ Hồng Vi, sinh năm: 1964, trú tại: Khu phố 1, phường Đô Vinh, TP. Phan Rang - Tháp Chàm, thuộc quyền sở hữu của bị cáo Nguyễn Văn M. Đây là phương tiện sử dụng vào việc phạm tội nên Hội đồng xét xử xét cần phải tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước là đúng quy định pháp luật.

Hiện nay, hồ sơ vụ án đang lưu giữ 01 Giấy đăng ký mô tô, xe máy biển số:

85V3-3690, mang tên Võ Hồng V nên cần phải giao Giấy đăng ký nêu trên cho Chi cục Thi hành án dân sự TP. Phan Rang – Tháp Chàm để xử lý cùng với xe mô tô bị tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động cảm ứng, hiệu Samsung, màu xanh đen; Số tiền 280.000 đồng của bị cáo Nguyễn Văn M, không liên quan đến hành vi phạm tội. Do M đang bị tạm giam nên Cơ quan điều tra đã trao trả lại tài sản trên cho anh Nguyễn Văn Bình theo yêu cầu của bị cáo M là phù hợp.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Các bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn M (M Bóng) và bị cáo Phạm Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/12/2021.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn Đ 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/12/2021.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 (một) xe mô tô, hiệu Talent, màu xanh, biển số: 85V3-3690, số máy: 2FMH-X013961, số khung: 1UM7X-013961.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/3/2022 giữa Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang – Tháp Chàm).

Giao 01 (một) Đăng ký mô tô, xe máy biển số: 85V3-3690, mang tên Võ Hồng V, sinh năm: 1964, trú tại: Khu phố 1, phường Đô Vinh, TP. Phan Rang - Tháp Chàm cho Chi cục Thi hành án dân sự TP. Phan Rang – Tháp Chàm để xử lý cùng với xe mô tô bị tịch thu sung ngân sách nhà nước.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn M và bị cáo Phạm Văn Đ mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 28/4/2022. Đại diện theo uỷ quyền của người bị hại ông Đàng Năng T vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể ngày bản án được tống đạt hợp lệ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

304
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 46/2022/HS-ST

Số hiệu:46/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;