Bản án về tội trộm cắp tài sản số 46/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN H, THÀNH PHỐ H 

 BẢN ÁN 46/2021/HS-ST NGÀY 09/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09/3/2021, tại Trụ sở Toà án nhân dân quận H, Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 07/2021/TLST-HS ngày 21/01/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2021/QĐXXST-HS ngày 25/02/2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Hoàng Anh D (Tên khác: không); Sinh ngày 12/01/2003; Giới tính: Nam; HKTT: Số 6A, ngõ 31, tổ 9, phường ML, quận H, thành phố H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo, đảng phái: Không; Nghề nghiệp: Học sinh; Trình độ văn hóa: 11/12; con ông Nguyễn L V, sinh năm 1977 và bà Đỗ Thị V, sinh năm 1982; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 09/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hoài Đức, thành phố H quyết định khởi tố bị can đối với Nguyễn Hoàng Anh D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự. Bản án số /2021/HSST ngày 05/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức tuyên phạt Nguyễn Hoàng Anh D 20 tháng tù.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/12/2020 và hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 Công an thành phố H. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Lưu Minh NA (Tên khác: Không), Sinh ngày 15/10/2002; Giới tính: Nam; HKTT: Số nhà 1, ngách 24/9, phố NQ, tổ 6, phường VP, quận H, thành phố H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo, đảng phái: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 8/12; Con ông Lưu Minh S (đã chết) và bà Trần Thị Nguyệt H, sinh năm 1973; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/12/2020 đến ngày 10/12/2020. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Những người tham gia tố tụng khác:

* Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Hoàng Anh D: Ông Nguyễn L V, sinh năm 1977 và bà Đỗ Thị V, sinh năm 1982 (bố mẹ đẻ của Nguyễn Hoàng Anh D); trú tại: Số 6A, ngõ 31, tổ 9, phường ML, quận H, thành phố H – có mặt.

* Trợ giúp viên pháp lý nhà nước bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hoàng Anh D: Bà Nguyễn Thị Thanh X – trợ giúp viên pháp lý thành phố H – có mặt.

* Người bị hại: Anh Nguyễn Văn T sinh năm 1986, trú tại Xóm 5, thôn YN, xã ĐQ, huyện QO, thành phố H. Xin vắng mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Cháu Văn Phú L sinh năm 2005 trú tại: Tổ 8, phường VP, quận H, thành phố H; Người đại diện hợp pháp cho cháu Văn Phú L: Bà Ngô Thị Trà, sinh năm 1984; trú tại: Tổ 8, phường VP, quận H, thành phố H. Xin vắng mặt.

- Ông Nguyễn Thế L, sinh năm 1960, trú tại Xóm 5, thôn YN, xã ĐQ, huyện QO, thành phố H. Xin vắng mặt.

- Anh Nguyễn Thế L, sinh năm 1986, trú tại Xóm 5, thôn YN, xã ĐQ, huyện QO, thành phố H. Xin vắng mặt.

- Anh Nguyễn Hùng V sinh năm 1977, trú tại phường LL, thị xã ST, thành phố H. Xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 01/12/2020, Lưu Minh NA điều khiển xe máy nhãn hiệu Hon-da Cup 50 màu xanh không có biển kiểm soát (xe mượn của anh Văn Phú L sinh năm 2005 trú tại Tổ 8, phường VP, quận H, thành phố H) đến làm việc tại công trình xây dựng ở tổ 15, phường Yên Nghĩa, quận H, thành phố H. Quá trình làm việc, NA nhìn thấy chiếc xe máy nhãn hiệu Hon-da Wave α màu đỏ-đen-bạc biển kiểm soát 30Y8-4777 của anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1986, trú tại xóm 5, thôn YN, xã ĐQ, huyện QO, thành phố H dựng tại tầng một trước cửa công trình xây dựng, không có người trông giữ, chìa khóa xe treo ở móc treo của xe nên nảy sinh ý định trộm cắp. NA nhắn tin qua facebook hẹn Nguyễn Hoàng Anh D ra quán nước ở đầu đường Tố Hữu, phường ML, quận H, thành phố H để nói chuyện. Khi gặp nhau, NA bảo D điều khiển xe máy Hon-da Cup chở mình đến công trình xây dựng ở tổ 15, phường Yên Nghĩa. Trên đường đi NA nói với D về chiếc xe đang dựng ở công trường không có người trông giữ; D hiểu ý NA nói về việc trộm cắp tài sản. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, D và NA điều khiển xe máy đến đầu ngõ vào công trình, D dừng xe chờ ở ngoài, còn NA đi bộ vào trong công trình lấy chìa khóa xe đem ra đưa cho D. D cầm chìa khóa xe máy đi bộ vào trong công trình mở khóa xe Hon-da Wave α màu đỏ-đen-bạc biển kiểm soát 30Y8-4777 rồi điều khiển ra ngoài chỗ NA đang chờ. Sau đó, D điều khiển xe máy nhãn hiệu Hon-da Wave α, NA điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Cup đi về quán nước lúc trước nhưng lạc nhau nên D điều khiển xe về quán nước chờ, còn NA đi về trả xe máy nhãn hiệu Honda Cup cho anh Văn Thế L. Khi NA về nhà thì nghe có người nói nhìn thấy NA trộm cắp xe máy. Do sợ bị phát hiện nên NA nhắn tin qua mạng xã hội facebook bảo D đi cất xe, tháo yếm, tháo biển kiểm soát vứt đi. Thấy vậy, D điều khiển xe máy Hon- da Wave α vừa trộm cắp được ra khu vực hồ điều hòa thuộc đất giãn dân phường VP, quận H, thành phố H tháo hai cánh yếm và biển kiểm soát xe vứt tại khu vực ven hồ điều hòa, cất giấu xe tại khu vực đường giáp hồ điều hòa cách vị trí vứt yếm, biển kiểm soát xe khoảng 200m rồi đi về nhà.

Sau khi phát hiện bị mất tài sản, anh Nguyễn Văn T có đơn tố giác đến cơ quan công an. Ngày 03/12/2020, Nguyễn Hoàng Anh D và Lưu Minh NA đã đến xin đầu thú, khai nhận hành vi vi phạm.

Vật chứng của vụ án đã thu giữ gồm:

- 01 xe máy nhãn hiệu Hon-da Wave α màu đỏ-đen-bạc biển kiểm soát 30Y8-4777, số máy 2516830, số khung 016777.

- 01 xe máy nhãn hiệu Hon-da CUB 50 màu xanh, không gắn biển kiểm soát, số máy VZS139FMB*144766, số khung RN8DCB1UMDB144766 do Lưu Minh NA tự nguyện giao nộp.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen đã qua sử dụng thu của Nguyễn Hoàng Anh D.

Tại các Biên bản và Kết luận định giá tài sản số 335/KL-HĐĐG ngày 04/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận H, kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Hon-da Wave màu đỏ-đen-bạc, biển kiểm soát 30Y8-4777, số khung 016777, số máy 2516830, tại thời điểm định giá là 5.500.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 09/CT-VKS-HĐ ngày 20/01/2021, Viện kiểm sát nhân dân quận H truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng Anh D và Lưu Minh NA về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng đã nêu và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận H giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58; Điều 91; Điều 101 Bộ luật hình sự: Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Anh D từ 06 tháng đến 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s, i khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đề nghị xử phạt bị cáo Lưu Minh NA từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 đến 24 tháng.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Trách nhiệm dân sự: do người bị hại đã nhận lại tài sản và nhận bồi thường 1.000.000đ, không có ý kiến gì nên không đề nghị xem xét.

Về tang vật: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự: Đề nghị tịch thu, sung quỹ 01 điện thoại Iphone 7 plus; chuyển trả cơ quan điều tra 01 xe máy Honda cub50 màu xanh, không gắn biển kiểm soát, số máy VZS139FMB*144766, số khung RN8DCB1UMDB144766 để điều tra, xác minh, làm rõ và xử lý theo quy định.

Người bào chữa cho bị cáo D có ý kiến: Nhất trí về tội danh Viện kiểm sát nhân dân quận H đã truy tố; Đề nghị HĐXX áp dụng điểm b,h,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91; Điều 101 Bộ luật hình sự, cho bị cáo được hưởng mức thấp nhất của khung hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Phân tích tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hoàn toàn đúng với các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 01/12/2020, tại công trường xây dựng thuộc Tổ 15, phường Yên Nghĩa, quận H, thành phố H, lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của chủ sở hữu, Nguyễn Hoàng Anh D và Lưu Minh NA đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của anh Nguyễn Văn T 01 xe máy nhãn hiệu Hon-da Wave α màu đỏ-đen-bạc, biển kiểm soát 30Y8-4777, có giá trị tại thời điểm định giá là 5.500.000 đồng.

[3]. Hành vi trên của các bị cáo là trái phép, đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận H truy tố các bị cáo Nguyễn Hoàng Anh D và Lưu Minh NA về tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[4]. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác về tài sản, gây mất trật tự trị an trên địa bàn.

Xét vai trò và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của các bị cáo thì thấy: Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn; bị cáo Lưu Minh NA là người khởi xướng; bị cáo D tiếp nhận và thực hiện một cách tích cực nên hai bị cáo đều phải chịu hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của mình.

Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã được thu hồi trả cho người bị hại, sau khi phạm tội các bị cáo đã tự ra đầu thú, các bị cáo đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả; bị cáo NA phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên Hội đồng xét xử cũng xem xét cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, T hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Bị cáo D có nhận thân xấu, tuy nhiên HĐXX xét thấy khi phạm tội BC đang ở độ tuổi chưa thành niên nên HĐXX sẽ xem xét áp dụng Điều 91, 101 Bộ luật hình sự khi lượng hình đối với bị cáo.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo có không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra xác định ông Nguyễn Thế L là chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe máy nhãn hiệu Hon-da Wave α màu đỏ-đen-bạc biển kiểm soát 30Y8-4777, số máy 2516830, số khung 016777. Ông L mua chiếc xe trên và giao cho con trai là anh Nguyễn Thế L toàn quyền sử dụng. Ngày 01/12/2020, anh Nguyễn Văn T mượn chiếc xe máy trên của anh L để đi làm thì bị trộm cắp. Ngày 12/01/2021, cơ quan cảnh sát điều tra đã trao trả chiếc xe trên cho anh Nguyễn Thế L. Quá trình giải quyết vụ án, gia đình các bị cáo đã bồi thường cho người bị hại số tiền 1.000.000đ; ông L, anh L và anh T đã nhận lại tài sản, không yêu cầu các bị cáo bồi thường thêm gì khác nên Hội đồng xét xử không xét.

[7]. Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Hon-da CUB 50 màu xanh, không gắn biển kiểm soát, số máy VZS139FMB*144766, số khung RN8DCB1UMDB144766 do Lưu Minh NA tự nguyện giao nộp là phương tiện do bị cáo sử dụng để thực hiện tội phạm. Quá trình điều tra xác định đây là xe bị cáo NA mượn của anh Văn Phú L, anh L trình bày mua xe của một người không quen biết, không có giấy tờ xe. Quá trình xác minh xác định chủ sở hữu xe là anh Nguyễn Hùng V sinh năm 1977, trú tại phường LL, thị xã ST, thành phố H. Anh V trình bày đầu năm 2017 anh mua chiếc xe máy trên làm phương tiện đi lại, đến khoảng tháng 12/2017 anh đến chơi và bị mất trộm chiếc xe máy trên tại trước cửa nhà số 2 đường Nhân Huệ, phường ĐM, quận H, thành phố H. Quá trình điều tra xác định anh Nguyễn Hùng V đứng tên sở hữu chiếc xe trên, xe không nằm trong cơ sở dữ liệu vật chứng; tuy nhiên thời điểm bị trộm cắp anh V không trình báo; thời điểm hiện tại cũng không xuất trình được giấy tờ sở hữu. Cần giao cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý theo quy định.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen đã qua sử dụng thu của Nguyễn Hoàng Anh D, bị cáo D đã dùng chiếc điện thoại này vào việc phạm tội nên cần tịch thu phát mại sung quỹ nhà nước.

[8]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[9]. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo; người đại diện hợp pháp cho bị cáo chưa thành niên, người bào chữa cho bị cáo chưa thành niên; người bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58; Điều 91; Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (đối với bị cáo D) Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s, i khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (đối với bị cáo NA) Căn cứ vào các Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Căn cứ khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1- Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hoàng Anh D và bị cáo Lưu Minh NA phạm tội: Trộm cắp tài sản.

2- Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Anh D 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03.12.2020.

- Xử phạt bị cáo Lưu Minh NA 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội “Trộm cắp tài sản”. Giao bị cáo Lưu Minh NA về Ủy ban nhân dân phường VP, H, H để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách các bị cáo được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 2 lần trở lên thì Tòa án có T quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trương hơp ngươi đươc hương an treo vắng mặt tại nơi cư trú, thay đôi nơi cư tru hoặc nơi làm việc thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

3- Về xử lý vật chứng:

+ Giao cơ quan điều tra Công an quận H 01 xe máy nhãn hiệu Hon-da CUB 50 màu xanh, không gắn biển kiểm soát, số máy VZS139FMB*144766, số khung RN8DCB1UMDB144766: để tiếp tục điều tra, xác minh, làm rõ.

+ Tịch thu, phát mại, sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen đã qua sử dụng Tình trạng như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/02/2021 giữa cơ quan cảnh sát điều tra công an quận H và chi cục thi hành án dân sự quận H.

3- Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Hoàng Anh D và Lưu Minn NA mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4- Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo chưa thành niên, người bào chữa cho bị cáo chưa thành niên, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; người đại diện hợp pháp cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 46/2021/HS-ST

Số hiệu:46/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;