Bản án về tội trộm cắp tài sản số 46/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 46/2021/HS-ST NGÀY 18/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 3 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 21/2021/HSST ngày 28 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2021/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Hoàng L, sinh ngày 04 tháng 8 năm 1993 tại tỉnh Thừa Thiên Huế.

Nơi cư trú: Tổ X, khu vực Y, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế (Kiệt X N, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế); nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Triệu H, sinh năm 1964 và bà Trần Thị L, sinh năm 1966; vợ, con: Chưa có; tiền án: Có 03 tiền án:

- Ngày 01/4/2013, bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 63/2013/HSST).

- Ngày 01/3/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 37/2016/HSST).

- Ngày 22/3/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 50/2018/HS-ST). Ngày 17/4/2020 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương.

Tiền sự: Không.

* Quá trình nhân thân: Nhỏ ở với cha mẹ, học văn hóa đến lớp 11/12 thì nghỉ học ở nhà.

- Ngày 28/52011, bị Công an thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt vi phạm hành chính 1.000.000đồng về hành vi “Cố ý gây thương tích”.

- Ngày 02/11/2011, bị Công an tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt vi phạm hành chính 750.000đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

- Ngày 23/7/2013, bị Công an thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 29/11/2020, tạm giam ngày 02/12/2020 cho đến nay. Có mặt.

* Bị hại:

1. Chị Trần Thị Thanh H, sinh ngày 20/8/2001.

Địa chỉ: 8/25/35 N, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vắng mặt.

2. Chị Nguyễn Thị Thanh Nh, sinh ngày 02/4/2002.

Địa chỉ: Tổ dân phố X, phường T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vắng mặt.

* Người làm chứng:

1. Ông Trần Triệu H, sinh ngày 13/5/2013.

Địa chỉ: Hẻm X kiệt Y N, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Vắng mặt.

2. Bà Trần Thị L, sinh ngày 26/3/1966.

Địa chỉ: Hẻm X kiệt Y N, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 01 giờ ngày 29/11/2020, Trần Hoàng L đi bộ đến khu nhà trọ ở số 8/25/35 N, phường A, thành phố H thì thấy không có cổng nên đi vào trong tìm kiếm tài sản để lấy trộm. Tại sân khu nhà trọ, L phát hiện 02 (hai) xe đạp điện không khóa cổ của những người đang tạm trú tại đây và không có người trông coi. L liền lén lút lấy 01 (một) chiếc xe đạp điện nhãn hiệu Yamaha màu trắng - xám của chị Trần Thị Thanh H (sinh năm: 2001; trú tại: xã V, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh) ra khỏi khu nhà trọ đem đến cất giấu tại hẻm số 27/27 N, phường A, thành phố H. Sau đó, L đi bộ quay lại khu nhà trọ tiếp tục lấy thêm 01 (một) chiếc xe đạp điện nhãn hiệu HTC-bike màu đỏ - đen của chị Nguyễn Thị Thanh Nh (sinh năm: 2002; trú tại: tổ X, phường T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế) đưa về nhà mình ở kiệt 128 N, phường A, thành phố H cất giấu. Tiếp đó, L đi bộ quay lại hẻm số 27/27 N, phường A, thành phố H và mang chiếc xe đạp điện đang cất giấu tại đây đưa về nhà của mình. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, khi L đang điều khiển chiếc xe đạp điện nhãn hiệu HTC-bike đi trên khu vực phường T, thành phố H để tìm nơi tiêu thụ thì bị Công an phường T bắt giữ.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 (một) xe đạp điện nhãn hiệu HTC bike màu đỏ đen.

- 01 (một) xe đạp điện nhãn hiệu YAMAHA màu xám, trắng; có giỏ xe nâu đen.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 261/KL-HĐĐGTS ngày 01/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Huế kết luận như sau:

“1. 01(một) xe đạp điện nhãn hiệu HTC-bike, màu sơn: đỏ - đen, đã qua sử dụng trị giá 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm ngàn đồng).

2. 01(một) xe đạp điện nhãn hiệu Yamaha, màu sơn: trắng - xám, đã qua sử dụng trị giá 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm ngàn đồng).

Tổng cộng: 5.000.000đồng (Năm triệu đồng).

Về xử lý vật chứng: Bị hại chị Trần Thị Thanh H và chị Nguyễn Thị Thanh Nh đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác.

Quá trình điều tra bị cáo Trần Hoàng L đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình.

Tại Bản cáo trạng số 38/CT-VKS-HS ngày 27/01/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố bị cáo Trần Hoàng L về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H: Giữ nguyên truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Hoàng L phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Hoàng L từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Trần Thị Thanh H và chị Nguyễn Thị Thanh Nh đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác. Nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Hoàng L phải chịu theo luật định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 29/11/2020, tại khu nhà trọ tại 8/25/35 N, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, Trần Hoàng L lén lút chiếm đoạt của chị Trần Thị Thanh H 01 chiếc xe đạp điện nhãn hiệu Yamaha màu trắng xám, qua định giá có giá trị 1.500.000đồng; chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị Thanh Nh 01 xe đạp điện nhãn hiệu HTC-bike màu đỏ đen, qua định giá có giá trị 3.500.000đồng. Tổng giá trị tài sản bị cáo L chiếm đoạt có giá trị 5.000.000đồng. Ngày 22/3/2018, Trần Hoàng L bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung tăng nặng là “Tái phạm nguy hiểm”, bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 17/4/2020, chưa được xóa án tích, nhưng lại tiếp tục phạm tội. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo Trần Hoàng L về tội trộm cắp tài sản theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo Trần Hoàng L là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng do muốn có tiền tiêu xài, bị cáo đã có hành vi trộm cắp tài sản của người khác. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, có 03 tiền án, nhưng không chịu tu dưỡng rèn luyện mà lại tiếp tục phạm tội. Do đó, cần xử phạt bị cáo với mức phạt thích đáng tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo không phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[3] Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là đúng theo quy định của pháp luật.

[4] Về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự: Các bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Hoàng L phải chịu theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Hoàng L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Trần Hoàng L 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ là ngày 29/11/2020.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

- Bị cáo Trần Hoàng L phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng).

4. Án sơ thẩm xét xử công khai, bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 46/2021/HS-ST

Số hiệu:46/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;