TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 456/2022/HS-ST NGÀY 23/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 23/9/2022, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 553/TLST-HS ngày 25/7/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 4878/2022/QĐXXST-HS ngày 07/9/2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Hoàng Đình L; Giới tính: nam; Sinh năm 1990, tại tỉnh Thanh Hóa; Nơi đăng thường trú: Đ, thôn V, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú trước khi bị bắt: 114/15/36 đường P, P, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ học vấn: 09/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Hoàng Đình C và bà Lê Thị V; Vợ tên Trần Thị Hải Y, có 03 người con; Lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giam ngày 19/7/2021, có mặt.
- Về nhân thân: Bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, theo Bản án số 169/2016/HSST, ngày 18/5/2016. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 18/5/2017 và đã nộp tiền án phí, theo Công văn số 01/TGCB ngày 03/01/2022 của Cục 10, trại giam Châu Bình và Công Văn số 1219/CC-THADS, ngày 23/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người bào chữa cho bị cáo: Ông Trịnh Bá T là Luật sư của Văn phòng Luật sư Trịnh Bá T, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt.
Bị hại: Ông Lã Linh C1, sinh năm 1979; trú tại 1 đường P, Phường A, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 02 giờ 00 ngày 19/7/2021, Hoàng Đình L đi bộ từ nhà trọ đến ngã ba đường P và đường N để mua bia về uống. Khi đi ngang căn nhà số A P, Phường A, quận G do ông Lã Linh C1 làm chủ, L nhìn thấy căn phòng trên lầu 1 không đóng cửa nên nảy sinh ý định đột nhập vào ông C1 để lấy trộm tài sản.
Sau một lúc quan sát, L leo lên tường rào, leo lên mái hiên di động, rồi trèo lên lầu một và đi vào căn phòng cuối cùng của lầu một nhà ông C1. Tại đây L lục lấy 02 cái két sắt đem ra để trên lan can lầu một, rồi lấy từng cái đem xuống đất, rồi về nhà trọ lấy xe mô tô hiệu Dream, biển số 60S2-54xx chạy đến chở 2 két sắt đem đến khu nghĩa trang trong hẻm B đường P, Khu phố E, Phường I, quận G cất giấu, rồi về nhà ngủ. Đến khoảng 08 giờ 00 cùng ngày, L1 đem theo búa, xà beng, bao ny lon và băng keo đến nơi cất giấu 02 két sắt và công cụ nảy đục vỡ cửa két sắt, lấy được 01 bao lì xì dựng tiền đô la Mỹ, 02 cọc tiền Việt Nam loại mệnh giá 500.000đồng, khoảng hơn 20 đồng hồ các loại và một số nữ trang gồm nhẫn, lắc đeo tay và dây chuyền vàng. Sau khi lấy được tài sản, L bỏ nữ trang, đồng hồ vào 02 bao ny lon rồi dùng băng keo quấn lại thành một gói, tiền đô la Mỹ bỏ vào bao lì xì màu đỏ, lấy dây thun cột 02 cọc tiền Việt Nam rồi mang về nhà trọ cất giấu. Đến trưa cùng ngày 19/7/2021, Hoàng Đình L bị cơ quan điều tra phát hiện, bắt giữ cùng với tang vật, gồm:
- 11.600 USD (mệnh giá mỗi tờ là 100USD);100.000.000 đồng (gồm 200 tờloại mệnh giá 500.000 dồng) - 16 trang sức các loại; 23 đồng hồ đeo tay các loại (có bản kê vật chúng kèm theo).
- 01 xà beng dài khoảng 45cm có 01 đầu dẹp, 01 đầu bẻ cong hình chữ L, cắt hình lưỡi kéo.
- 01 bao ny lông màu đen có chữ Thạch Tú Sài Gòn.
- 01 nón kết màu đen có viền đỏ và chữ Tommy.
- 01 áo thun ngắn tay màu đen, có 03 viền màu trắng trước ngực.
- 01 quần jean dài màu xanh.
- 01 đôi dép nhựa tổ ong màu cam.
- 04 ống nhựa chứa mẫu ADN.
-01 (Một) chiếc xe mô tô kiểu dáng Dream II, gắn biển số xe 60S2-54xx, có số khung VVNSPCG0011S003910 số máy VKV1P50FMG30103910.
Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 16/KL-HÐÐGTS ngày 28/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự quận G kết luận: 23 (Hai mươi ba) cái đồng hồ các loại và các trang sức chứa hàm lượng vàng có giá trị là 501.383.332 đồng.
Ngày 19/7/2021, Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam Chi nhánh 9 có văn bản xác định tỉ giá mua vào và thanh toán tiền mặt của tiền USD ngày 19/7/2021 có tỷ giá là 01 USD = 22.890 đồng, tiền VNĐ. Như vậy 11.600 USD tuơng ứng với 265.524.000 đồng.
Tổng giá trị tài sản mà bị cáo lấy trộm của ông Lã Linh C1 là 866.907.332 đồng.
Ngày 28/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận G đã ra quyết định xử lý vật chứng số 19/QĐ-CSHS, bằng hình thức trao trả toàn bộ vàng trang sức, đồng hồ, USD, tiền Việt Nam cho ông Lã Linh C1.
Đối với hai cuốn sổ tiết kiệm của ông C1, khi Cơ quan điều tra khám nghiệm hiện trường tại Nghĩa trang, ông C1 nhìn thấy 02 sổ tiết kiệm quăng bỏ tại đây, nên ông xin Cơ quan điều tra đem về để xử lý công việc. Do đó, Cơ quan điều tra Công an quận G không đưa vào biên bản thu giữ vật chứng.
Về phần dân sự: Ông Lã Linh C1 đã nhận lại toàn bộ số tài sản bị mất và không có yêu câu gì khác.
Bản cáo trạng số 331/CT-VKS-P2 ngày 30/6/2022 đã truy tố bị cáo Hoàng Đình L về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa:
Bị cáo Hoàng Đình L khai nhận đã thực hiện hành vi như đã nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo khai nhận đã thực hiện những hành vi như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát mô tả. Do đó, Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản”, theo điểm a khoản 4 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; toàn bộ tài sản đã được thu hồi và trả lại cho bị hại, bị cáo là con thương binh là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo từ 10 (Mười) năm đến 12 (Mười hai) năm tù và xử lý vật chứng theo quy định tại Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Luật sư bào chữa cho bị cáo thống nhất với nội dung bản Cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản”. Tuy nhiên ngoài các tình tiết giảm nhẹ mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị, Luật sư cho rằng bị cáo còn có những tình tiết giảm nhẹ khác như là: Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, do tài sản của bị hại đã được thu hồi trả lại toàn bộ; Cha của bị cáo là người có công với Nhà nước, là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm h, x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Luật sư đề nghị Tòa áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo mức án dưới khung hình phạt và dưới mức mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị.
Đại diện Viện kiểm sát đối đáp, tranh luận với Luật sư như sau:
- Luật sư yêu cầu tòa áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại h, x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 cho bị cáo là không đúng luật. Bỡi lẽ, bị cáo đã lấy được tài sản của bị hại đem về nhà cất giấu, do nỗ lực phá án kịp thời của cơ quan điều tra nên toàn bộ tài sản mà bị cáo trộm cắp đã được thu hồi, trả lại cho bị hại, chứ không phải bị cáo chưa chiếm đoạt được tài sản của bị hại; bị cáo là con của Thương binh chứ không phải là con Liệt sĩ, do đó không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm h, x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Các tình tiết trên chỉ được xem xét và áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
-Về hình phạt: Luật sư đề nghị Tòa xử phạt bị cáo mức án thấp hơn mức mà đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị. Vấn đề này do Hội đồng xét xử xem xét, quyết định cho phù hợp.
Bị cáo không có tranh luận gì và trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Tòa giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại phù hợp với vật chứng và những chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án, nên có căn cứ xác định: Vào khoảng 02 giờ 00 ngày 19/7/2021, lợi dụng đêm khuya và lúc gia đình ông Lã Linh C1 đang ngủ, bị cáo đã có hành vi lẻn vào nhà ông C1 lấy 02 két sắt đựng tài sản mang ra cất giấu tại khu nghĩa trang trong hẻm B đường P, sau đó bị cáo đem cây xà beng ra đục phá 2 két sắt, để lấy tài sản. Giá trị tài sản mà bị cáo trộm cắp của ông Lã Linh C1 là 866.907.332 đồng, nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 4 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[3] Về tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Toàn bộ tài sản mà bị cáo trộm cắp đã được thu hồi, trả lại cho bị hại; bị hại có đơn bãi nại và bị cáo là con của Thương binh, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[4] Xét tính chất của vụ án do bị cáo gây ra là đặc biệt nghiêm trọng, nó không những xâm phạm đến tài sản của người khác mà còn gây mất an ninh, trật tự và an toàn xã hội tại khu dân cư. Bị cáo đã bị tòa án nhân dân quận Gò Vấp xử phạt 01 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, nhưng sau khi chấp hành xong hình phạt bị cáo không tiếp tục tu dưỡng, rèn luyện mà lại phạm tội mới và lần phạm tội này có tính chất, mức độ nghiêm trọng hơn. Lẽ ra phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc để giáo dục riêng và phòng ngừa những trường hợp tương tự, song xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như đã nhận định tại phần [3] nên Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo bằng mức án khởi điểm của khung hình phạt cũng là thỏa đáng.
[5] Xét về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định “Người phạm tội còn có thể phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Xét hiện tại gia đình của bị cáo khó khăn, nên không áp hình phạt bổ sung.
[6] Về vật chứng của vụ án: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra thu giữ các vật chứng sau:
- 01 xà beng dài khoảng 45cm có 01 đầu dẹp, 01 đầu bẻ cong hình chữ L, cắt hình lưỡi kéo.
- 01 bao ny lông màu đen có chữ Thạch Tú Sài Gòn.
- 01 nón kết màu đen có viền đỏ và chữ Tommy.
- 01 áo thun ngắn tay màu đen, có 03 viền màu trắng trước ngực.
- 01 quần jean dài màu xanh.
- 01 đôi dép nhựa tổ ong màu cam.
- 04 ống nhựa chứa mẫu ADN.
Đây là những đồ vật có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo và những đồ vật này không còn giá trị, nên tuyên tịch thu tiêu hủy như quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
- 01 USB chứa dữ liệu camera vụ trộm. Đây là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo nên lưu vào hồ sơ vụ án.
-Chiếc xe mô tô kiểu dáng Dream II, gắn biển số xe 60S2-54xx, có số khung VVNSPCG0011S003910 số máy VKV1P50FMG30103910 là chiếc xe mà bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội. Bị cáo khai mua chiếc xe này của người đàn ông không rõ lại lịch, mua tại vỉa hè tại khu vưc chợ G vào khoản tháng 7 năm 2019 với giá 1.300.000 đồng, xe không có giấy tờ và không viết giấy mua bán. Qua xác minh thì biển số xe là của anh Trịnh Bảo T2 trú tại ấp H, xã T, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai, nhưng anh T2 không còn ở địa phương nên Cơ quan điều tra không ghi được lời khai. Còn số khung, số máy là của chiếc xe có biển số thật là 64F8-24xx, nhãn hiệu VECSTAR, do anh Lê Văn T3, trú tại ấp V, xã T, huyện B, tỉnh V đứng tên sở hữu, nhưng anh T3 không còn ở địa phương nên không ghi được lời khai. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã đăng báo tìm chủ sở hữu, nhưng đến nay chưa có ai đến liên hệ giải quyết. Do đó, tiếp tục đăng trên phương tiện thông tin đại chúng trong vòng 1 năm, nếu không có ai đến nhận thì tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.
[7] Về trách nhiệm dân sự:
Cơ quan điều tra đã thu hồi và giao trả lại toàn bộ tài sản bị mất cho bị hại và bị hại đã có đơn bãi nại. Tại phiên tòa bị hại vắng mặt nên Tòa không xét.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
*Căn cứ vào điểm a khoản 4 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:
Xử phạt: Hoàng Đình L 12 (Mười hai) năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 19/7/2021.
Về xử lý vật chứng:
Căn cứ vào điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:
1. Tuyên tịch thu tiêu hủy những đồ vật sau:
- 01 xà beng dài khoảng 45cm có 01 đầu dẹp, 01 đầu bẻ cong hình chữ L, cắt hình lưỡi kéo.
- 01 bao ny lông màu đen có chữ Thạch Tú Sài Gòn.
- 01 nón kết màu đen có viền đỏ và chữ Tommy.
- 01 áo thun ngắn tay màu đen, có 03 viền màu trắng trước ngực.
- 01 quần jean dài màu xanh.
- 01 đôi dép nhựa tổ ong màu cam.
- 04 ống nhựa chứa mẫu ADN.
2. Lưu vào hồ sơ vụ án 01 (Một) USB chứa dữ liệu camera vụ trộm.
3. Đăng trên phương tiện truyền thông đại chúng trong vòng 1 năm, nếu không có ai đến nhận thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 chiếc xe gắn máy xe mô tô kiểu dáng Dream II, gắn biển số xe 60S2-54xx, có số khung VVNSPCG0011S003910 số máy VKV1P50FMG30103910.
Các vật chứng trên Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh đang tạm giữ (Theo biên bản giao nhận tang tài vật số NK2022/534 ngày 15/8/2022 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).
Về án phí:
Áp dụng Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.
Về quyền kháng cáo:
-Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 23/9/2022).
-Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Bản án được tống đạt hoặc niêm yết.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 456/2022/HS-ST
Số hiệu: | 456/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/09/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về