Bản án về tội trộm cắp tài sản số 45/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH TƯỜNG, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 45/2021/HS-ST NGÀY 15/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 6 năm 2020, tại Hội trường Ủy ban nhân dân xã V, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 49/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2021/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Phùng A, sinh ngày 28 tháng 10 năm 1987; Trú tại: xã V, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phùng Văn D sinh năm 1964 và Nguyễn Thị L sinh năm 1964; Vợ: Phùng Thị C sinh năm 1992; con: có 02 con (lớn sinh năm 2010 và nhỏ sinh năm 2013);

- Tiền án: 04. Cụ thể:

+ Tại bản án hình sự sơ thẩm số 90/2013/HSST ngày 12/11/2013 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46 và điểm g (tái phạm) khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt A 02 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (đối với hành vi trộm cắp tài sản có giá trị 10.000.000đ vào ngày 04/5/2013).

+ Tại bản án hình sự sơ thẩm số 225/2013/HSST ngày 26/11/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì - tỉnh Phú Thọ áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46 và điểm g (tái phạm) khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt A 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (đối với 02 lần A trộm cắp tài sản vào ngày 27/01/2013 và 08/7/2013 có tổng giá trị là 24.780.000đ).

+ Tại bản án số 31/2014/HSST ngày 10/4/2014 của Tòa án nhân dân huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm g, p khoản 1 Điều 46 và điểm g (tái phạm) khoản 1 Điều 48, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt A 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (đối với hành vi trộm cắp tài sản có giá trị 14.507.000đ vào ngày 24/02/2013). Tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt 02 năm 06 tháng tù tại Bản án số 90/2013/HSST ngày 12/11/2013 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường và hình phạt 30 tháng tù tại Bản án số 225/2013/HSST ngày 26/11/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì buộc Phùng A phải chấp hành chung cho cả ba bản án là 06 năm 03 tháng tù.

+ Tại bản án số 48/2014/HSST ngày 09/5/2014 của Tòa án nhân dân huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội áp dụng khoản 1 Điều 250, điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt A 15 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Tổng hợp hình phạt với bản án số 31/2014/HSST ngày 09/5/2014 của Tòa án nhân dân huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội buộc Phùng A phải chấp hành chung cho cả 02 bản án là 07 năm 06 tháng tù. Phùng A đã chấp hành xong hình phạt tù và ra trại ngày 24/7/2020.

- Tiền sự: Không.

- Nhân thân:

+ Ngày 27/5/2002, Phùng A bị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc ra quyết định số 1897 áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng (Tam Điệp - Ninh Bình) do nhiều lần trộm cắp tài sản, đã được giáo dục nhưng không chịu sửa chữa, thời hạn 24 tháng. Chấp hành xong ngày 29/01/2004.

+ Ngày 14/10/2006, A bị Công an xã Bình Dương, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền (200.000 đồng) do có hành vi “Trộm cắp vặt”, vi phạm quy định tại điểm a khoản 1 Điều 18 Nghị định 150/2005/NĐ -CP ngày 12/12/2005 của Chính Phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội. A chấp hành việc nộp phạt xong ngày 14/10/2006.

+ Tại bản án số 43/2007/HSST ngày 28/9/2007 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường xử phạt A 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (giá trị tài sản 1.500.000đ). Ngày 21/01/2008, A chấp hành xong hình phạt tù, tháng 7/2008 A chấp hành xong toàn bộ bản án.

+ Tại bản án hình sự sơ thẩm số 77/2010/HSST ngày 29/10/2010 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt A 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đối với hành vi trộm cắp tài sản có giá trị 2.068.000đ vào ngày 12/6/2010). Ngày 27/5/2011, A chấp hành xong hình phạt tù và toàn bộ bản án.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 20/02/2021 đến nay có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: A Nguyễn Văn H, sinh năm1982. Trú tại: thôn M, xã T, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 16/12/2020, Phùng A đi bộ một mình từ nhà ở của A đến xã Tân Tiến, huyện Vĩnh Tường mục đích để bắt chuột tại cánh đồng. Khi đi, A cầm theo 01 chiếc vợt lưới có cán bằng tre dài 214cm, 01 chiếc túi vải, 01 chiếc đèn pin đội đầu. A đi theo đường liên xã đến xã T, huyện Vĩnh Tường rồi rẽ trái vào đường Quốc lộ 2A và đi theo hướng đi thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Khi đi đến bãi đỗ xe ô tô tải của A Nguyễn Văn H nằm ven đường Quốc lộ 2A thuộc thôn Mới, xã Tân Tiến, huyện Vĩnh Tường thì A đi ra phía sau bãi đỗ xe ô tô này rồi đi dọc theo bờ kênh cạnh đó, đi qua cầu sang bờ kênh bên kia. Lúc này, A quan sát thấy trên bờ kênh đối diện (có cầu bắc sang) ở phía sau quán ăn sáng của A Phan Văn H, sinh năm 1977 ở thôn M, xã T, huyện Vĩnh Tường có 01 con dê giống cái, lông màu đen trắng của A Nguyễn Văn H đang được nuôi thả tại đây nhưng không có ai trông giữ nên A đã nảy sinh ý định trộm cắp con dê này bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. A đi đến gần vị trí con dê, dùng hai tay cầm chiếc vợt lưới mang theo chụp bắt được con dê này vào trong lưới, vặn đầu chiếc vợt lưới lại rồi ôm con dê cùng chiếc vợt lưới đi theo lối vào ban đầu ra đường Quốc lộ 2A để tẩu thoát. Lúc này, A H đang làm đồ ăn sáng tại quán của mình thì nghe thấy tiếng dê kêu và chó sủa, A Hiệp đi ra phía sau quán thì nhìn thấy A đã bắt trộm được con dê của A Hậu và bỏ chạy, A Hiệp hô to nhiều lần “Có trộm”. Khi A đi đến vị trí sau bãi đỗ xe ô tô của A Hậu thì nghe thấy tiếng A Hiệp hô và thấy có người dân chạy ra, A đã bỏ lại chiếc vợt lưới đựng con dê bên trong tại vị trí bãi đỗ xe ô tô của A Hậu và bỏ chạy theo hướng về phía xã Đại Đồng nhưng chạy được khoảng 20m thì bị A Hiệp cùng một số người dân xung quA và người đi đường bắt giữ lại. A giằng co với mọi người với mục đích để tẩu thoát nên đã bị một số người dùng chân tay không đánh, khống chế A, sau đó trình báo sự việc đến Công an xã Tân Tiến và Công an huyện Vĩnh Tường.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) con dê giống cái, lông màu đen trắng có trọng lượng 29kg, còn sống và khỏe mạnh bình thường, A khai nhận đây là con dê mà A đã trộm cắp được của A Nguyễn Văn Hậu; 01 (một) khẩu trang bằng vải màu đỏ (đã cũ), 01 (một) chiếc mũ len màu đen xám (đã cũ), 01 (một) chiếc vợt lưới có cán bằng tre dài 214cm, 01 (một) chiếc đèn pin đội đầu màu xám (đã cũ).

Quá trình điều tra, ông Phùng Văn D, sinh năm 1964 (bố đẻ Phùng A) đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan điều tra những đồ vật, tài sản gồm: 01 (một) đôi tất màu trắng (đã cũ); 01 (một) đôi giày thể thao màu đen, đế màu trắng (đã cũ);

01 (một) chiếc quần dài màu đen (đã cũ); 01 (một) chiếc áo khoác gió màu xA rêu (đã cũ); 01 (một) chiếc áo khoác nỉ màu xA (đã cũ) là trang phục mà Phùng A mặc trên người trong khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nêu trên.

Ngoài ra, Phùng A đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan điều tra 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG loại GALAXY A51 màu xA có số IMEI1: 355036112838656, số IMEI2: 355037112838654 (đã cũ), bên trong có 01 thẻ sim in hàng số 8984 04800 00589 80003 và 01 thẻ sim in hàng số 8401 1809 1223 3043 WD, đây là chiếc điện thoại di động mà A mang theo trong quá trình thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nêu trên Ngay sau khi nhận được tin báo về vụ trộm cắp tài sản trên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Tường đã phối hợp cùng các cơ quan chức năng tiến hành khám nghiệm hiện trường và tổ chức các hoạt động điều tra theo quy định pháp luật. Do A bị một số người dân đánh bị xây xát, rách da tại vùng đầu bên phải, vùng mặt, mí mắt phải và sưng nề cánh tay trái nên lực lượng Công an đã đưa A đến sơ cứu tại Trạm y tế xã Tân Tiến rồi được gia đình chuyển đến điều trị tại Trung tâm y tế huyện Vĩnh Tường đến ngày 19/12/2020 thì ra viện.

Ngày 18/12/2020, Cơ quan CSĐT Công huyện Vĩnh Tường ra Yêu cầu định giá tài sản số 04 gửi Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Vĩnh Tường đề nghị định giá, xác định giá trị của con dê mà Phùng A đã trộm cắp được của A Nguyễn Văn H nêu trên. Ngày 22/12/2020, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Vĩnh Tường đã ra Bản kết luận định giá tài sản số 154/KL- HĐĐGTTHS xác định giá trị của 01 con dê nêu trên là: 4.350.000 đồng (Bốn triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng). Sau khi được Cơ quan điều tra đã thông báo kết luận định giá tài sản trên, Phùng A và A Nguyễn Văn Hậu đều đồng ý, không có thắc mắc gì.

Quá trình điều tra, A Nguyễn Văn H đã cung cấp cho cơ quan điều tra 01 đoạn video thu từ hệ thống camera an ninh tại khu vực hiện trường vụ trộm cắp tài sản và 01 đoạn video do A quay lại bằng điện thoại ghi lại qúa trình người dân đuổi bắt A và hình ảnh của 01 đối tượng nam giới khác điều khiển xe mô tô gần hiện trường vụ trộm cắp tài sản.

Ngày 07/01/2021, Cơ quan Cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Tường ra Quyết định trưng cầu giám định số 40, trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định kỹ thuật số và điện tử đối với 02 đoạn video do A Hậu cung cấp. Ngày 21/01/2021, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã ra Bản kết luận giám định số 230/KLGĐ đối với 02 đoạn video thu được trong vụ Trộm cắp tài sản nêu trên. Theo đó kết luận như sau:

- Trích xuất được 10 (mười) ảnh mô tả đặc điểm, hành động của người và phương tiện xuất hiện trong tập tin video có tên: “QXMG7044.MP4” (gồm các ảnh từ 1 đến 10).

- Trích xuất được 02 (hai) ảnh mô tả đặc điểm, hành động của những người xuất hiện trong tập tin video có tên: “JKGA9958.MP4” (ảnh 11 và 12).

- Toàn bộ ảnh nêu trên được thể hiện trong 01 (một) bản ảnh giám định.

- 02 (hai) tập tin video gửi giám định được sao in trong 01 (một) đĩa DVD có chữ ký của giám định viên.

Bản ảnh giám định được thuyết minh như sau:

Ảnh 1, 2: Xuất hiện 01 người nam mặc áo dài tay thẫm màu, quần dài sáng màu (Người A) điều khiển 01 xe mô tô thẫm màu đi trên đường theo hướng từ phải qua trái. Người A ngồi trên xe mô tô dùng chân đẩy xe mô tô đi, sau đó bật đèn chiếu sáng phía trước và điều khiển xe đi chậm trên đường.

Ảnh 3, 4: Người A điều khiển xe mô tô quay ngược lại đi chậm trên đường theo hướng từ trái qua phải.

Ảnh 5, 6: Người A tiếp tục điều khiển xe mô tô quay ngược lại đi chậm trên đường hướng từ phải qua trái; người A có hành động dùng chân đẩy xe mô tô.

Ảnh 7: Người A tiếp tục điều khiển xe mô tô quay lại đi chậm trên đường theo hướng từ trái qua phải rồi đi khuất khỏi quan sát.

Ảnh 8: Người A tiếp tục đi chậm trên đường hướng từ phải sang trái.

Ảnh 9: Người A điều khiển xe mô tô đi chậm trên đường hướng từ trái sang phải, người A có động tác quay đầu nhìn về phía sau bên trái.

Ảnh 10: Người A đi sang làn đường ngược chiều và tiếp tục có hành động quay đầu nhìn về phía sau bên trái, sau đó đi khuất khỏi quan sát.

Ảnh 11, 12: Trên video xuất hiện 01 người nam đội mũ bảo hiểm thẫm màu, quần áo tối màu đang dùng 2 tay nắm, giữ 2 tay của 01 người nam khác mặc áo cộc tay sáng màu, quần dài tối màu đang nằm trên đất, bên cạnh người nam đang nằm trên đất này có 01 vợt gắn lưới, bên trong lưới có một số con vật không xác định được cụ thể đặc điểm.

Cơ quan điều tra tiến hành cho A quan sát bản ảnh giám định, A xác định “người nam khác” mặc áo cộc tay sáng màu, quần dài tối màu đang nằm trên đất tại ảnh số 11 và 12 trong bản ảnh giám định chính là A còn người nam giới (ký hiệu người A) trong các ảnh từ số 01 đến số 10 và người nam giới đội mũ bảo hiểm thẫm màu, mặc quần áo tối màu nắm giữ 2 tay của A tại ảnh số 11 và 12 trong bản ảnh giám định A đều không biết là ai, ở đâu. A Hậu cũng không nhận ra, không quen biết người nam giới ký hiệu “Người A” và người nam đội mũ bảo hiểm trong bản ảnh giám định.

Ngày 13/01/2021, Cơ quan Cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Tường ra Quyết định trưng cầu giám định số 48 trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định kỹ thuật số và điện tử (phân tích dữ liệu cuộc gọi, tin nhắn trong thời gian từ ngày 15/12/2020 đến ngày 16/12/2020) đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, màu xA, có số Imei1 355036112838656, Imei2: 355037112838654, bên trong điện thoại có 01 thẻ sim in hàng số 8984048000058980003 và 01 thẻ sim in hàng số 8401180912233043 WD là chiếc điện thoại của A giao nộp để phục vụ công tác điều tra.

Ngày 21/01/2021, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc có Bản kết luận giám định số 231/KLGĐ, kết luận:

Trích xuất dữ liệu trong điện thoại SAMSUNG và 02 thẻ sim gửi giám định, không khôi phục được do không thấy dữ liệu đã xóa. Qua phân tích dữ liệu thấy: Điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, có số IMEI1: 355036112838656, IMEI2: 355037112838654 có 27 tin nhắn SMS, 67 cuộc gọi trong lịch sử cuộc gọi, 260 tin nhắn Zalo, 72 tin nhắn Facebook Messenger; Thẻ sim có in hàng số 8984048000058980003 và thẻ sim có in hàng số 8401180912233043 WD: Không có tin nhắn và lịch sử cuộc gọi. Dữ liệu trích xuất được in vào 01 Phụ lục. Kèm theo Kết luận giám định: 01 Phụ lục có chữ ký của giám định viên và dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự.

Cơ quan điều tra đã thông báo nội dung bản kết luận giám định nêu trên cho Phùng A biết, A đồng ý với nội dung bản kết luận giám định, không có ý kiến thắc mắc gì. Qua kiểm tra nội dung các tin nhắn nêu trên xác định không có tin nhắn nào liên quan đến hành vi trộm cắp tài sản ngày 16/12/2020 tại xã Tân Tiến, huyện Vĩnh Tường của Phùng A hoặc liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật khác.

Tại bản Cáo trạng số: 51/CT-VKS-VT ngày 25 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Phùng A về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo A khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố, ngoài ra không có lời bào chữa nào khác.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Phùng A và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; xử phạt bị cáo A từ ... năm .... tháng tù đến ....năm ... tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 20/02/2021. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và đồng thời đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được trA tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến kiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2].Về nội dung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo A thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường. Xét lời nhận tội của bị cáo là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Vĩnh Phúc, phù hợp với biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thẩm tra tại phiên tòa nên có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 02 giờ 50 phút ngày 16/12/2020, lợi dụng gia đình A Nguyễn Văn H nuôi thả dê tại bờ kênh phía sau bãi đỗ xe ô tô tải của gia đình A Hậu nằm ven đường quốc lộ 2A không có ai trông giữ nên Phùng A đã lén lút dùng vợt lưới đem theo trộm cắp được 01 con dê giống cái, lông màu đen trắng, nặng 29kg (còn sống), có giá trị 4.350.000 đồng (Bốn triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng). Sau khi trộm cắp được 01 con dê trên, Phùng A bị quần chúng nhân dân phát hiện, bắt giữ và trình báo cơ quan Công an. Ngay sau đó, Công an xã Tân Tiến phối hợp cùng Công an huyện Vĩnh Tường đã đưa Phùng A cùng tang vật chứng liên quan gồm 01 con dê cái (còn sống), 01 vợt lưới, 01 mũ len, 01 khẩu trang, 01 đèn pin (đã cũ) về trụ sở làm việc theo quy định.

Phùng A đã có 03 tiền án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích, do vậy hành vi nêu trên của Phùng A đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS.

Điểm g khoản 1 Điều 173 BLHS quy định: Tội trộm cắp tài sản “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng ..., thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:...

g) Tái phạm nguy hiểm".

Như vậy, việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không oan sai.

[3]. Về tính chất và mức độ của hành vi phạm tội: Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội bị quần chúng nhân dân lên án. Đối chiếu với yêu cầu phòng chống tội phạm ở địa phương, hiện nay trên địa bàn huyện Vĩnh Tường nói riêng cũng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc nói chung tình hình trộm cắp tài sản có chiều hướng gia tăng. Do vậy, cần phải xử phạt bị cáo nghiêm minh trước pháp luật, mới có tác dụng phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh A chống tội phạm.

[4]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân: Bị cáo A là người có nhận thức bình thường, có hiểu biết nhất định về pháp luật nhưng không chịu tu dưỡng bản thân, bất chấp quy định của pháp luật đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác để mục đích bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo; nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên bị cáo có 04 tiền án, chưa được xóa án tích: Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 90/2013/HSST ngày 12/11/2013 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46 và điểm g (tái phạm) khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt A 02 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (đối với hành vi trộm cắp tài sản có giá trị 10.000.000đ vào ngày 04/5/2013); Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 225/2013/HSST ngày 26/11/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46 và điểm g (tái phạm) khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt A 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (đối với 02 lần A trộm cắp tài sản vào ngày 27/01/2013 và 08/7/2013 có tổng giá trị là 24.780.000đ); Tại bản án số:

31/2014/HSST ngày 10/4/2014 của Tòa án nhân dân huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm g, p khoản 1 Điều 46 và điểm g (tái phạm) khoản 1 Điều 48, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt A 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (đối với hành vi trộm cắp tài sản có giá trị 14.507.000đ vào ngày 24/02/2013). Tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt 02 năm 06 tháng tù tại Bản án số: 90/2013/HSST ngày 12/11/2013 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường và hình phạt 30 tháng tù tại Bản án số:

225/2013/HSST ngày 26/11/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì buộc Phùng A phải chấp hành chung cho cả ba bản án là 06 năm 03 tháng tù; Tại bản án số: 48/2014/HSST ngày 09/5/2014 của Tòa án nhân dân huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội áp dụng khoản 1 Điều 250, điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt A 15 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Tổng hợp hình phạt với bản án số:

31/2014/HSST ngày 09/5/2014 của Tòa án nhân dân huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội buộc Phùng A phải chấp hành chung cho cả 02 bản án là 07 năm 06 tháng tù. Phùng A đã chấp hành xong hình phạt tù và ra trại ngày 24/7/2020; bị cáo cũng có nhân thân xấu: Ngày 27/5/2002, Phùng A bị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc ra quyết định số 1897 áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng (Tam Điệp - Ninh Bình) do nhiều lần trộm cắp tài sản, đã được giáo dục nhưng không chịu sửa chữa, thời hạn 24 tháng. Chấp hành xong ngày 29/01/2004; Ngày 14/10/2006, A bị Công an xã Bình Dương, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền (200.000 đồng) do có hành vi “Trộm cắp vặt”, vi phạm quy định tại điểm a khoản 1 Điều 18 Nghị định 150/2005/NĐ -CP ngày 12/12/2005 của Chính Phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội. A chấp hành việc nộp phạt xong ngày 14/10/2006; Tại bản án số: 43/2007/HSST ngày 28/9/2007 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường xử phạt A 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (giá trị tài sản 1.500.000đ). Ngày 21/01/2008, A chấp hành xong hình phạt tù, tháng 7/2008 A chấp hành xong toàn bộ bản án; Tại bản án hình sự sơ thẩm số 77/2010/HSST ngày 29/10/2010 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt A 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đối với hành vi trộm cắp tài sản có giá trị 2.068.000đ vào ngày 12/6/2010). Ngày 27/5/2011, A chấp hành xong hình phạt tù và toàn bộ bản án). Tuy nhiên A không lấy đó làm bài học tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội, điều này chứng tỏ bị cáo rất coi thường pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử chỉ có thể xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhưng nhất thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện, có ý thức tuân thủ pháp luật.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo A làm nghề tự do, thu nhập thấp, không ổn định, không có tài sản gì có giá trị nên không có khả năng thi hành án. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự:

Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã trả lại con dê cho A Nguyễn Văn H. Sau khi nhận lại tài sản A Hậu không yêu cầu bị cáo A phải bồi thường gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Trong quá trình đuổi bắt quả tang A trộm cắp tài sản, A bị một số người dân đánh bị xây xát, rách da tại vùng đầu bên phải, vùng mặt, mí mắt phải và sưng nề cánh tay trái nên lực lượng Công an đã đưa A đến sơ cứu tại Trạm y tế xã Tân Tiến rồi được gia đình chuyển đến điều trị tại Trung tâm y tế huyện Vĩnh Tường đến ngày 19/12/2020 thì ra viện. Quá trình điều tra A từ chối giám định thương tích của mình, đến nay thương tích của A đã hoàn toàn bình phục, A không có yêu cầu đề nghị gì về thương tích của mình nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với những người đánh A là phù hợp.

[7]. Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 con dê giống cái, lông màu đen trắng có trọng lượng 29kg, còn sống và khỏe mạnh bình thường, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Tường đã trả lại cho A Nguyễn Văn H. Sau khi nhận lại tài sản A H không có yêu cầu, đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với 01 chiếc vợt có cán bằng tre dài 214cm, 01 chiếc đèn pin đội đầu, 01 khẩu trang bằng vải màu đỏ và 01 chiếc mũ len màu đen - xám không còn giá trị sử dụng, qua điều tra xác định đây là tài sản của A, A đã dùng những tài sản này để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định.

Đối với 01 đôi tất màu trắng, 01 đôi giày thể thao màu đen, đế màu trắng, 01 chiếc quần dài da màu đen, 01 chiếc áo khoác gió màu xA rêu, 01 chiếc áo khoác nỉ màu xA là tài sản hợp pháp của A và không liên quan đến hành vi trộm cắp tài sản của A nên cần trả lại cho A.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung loại Galaxy A51, số IMEI1: 355036112838656, số IMEI2: 355037112838654, màu xA, bên trong có 01 thẻ sim in hàng số 8984048000058980003 và 01 thẻ sim in hàng số 8401180912233043 WD là tài sản hợp pháp của A, A không sử dụng vào việc phạm tội nên trả cho A nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[8]. Về án phí: Bị cáo A phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Phùng A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Phùng A 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 20 tháng 02 năm 2021.

Về các vấn đề khác: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Trả lại cho Phùng A 01 đôi tất màu trắng, 01 đôi giày thể thao màu đen, đế màu trắng, 01 chiếc quần dài da màu đen, 01 chiếc áo khoác gió màu xA rêu, 01 chiếc áo khoác nỉ màu xA.

Trả lại cho Phùng A 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung loại Galaxy A51, số IMEI1: 355036112838656, số IMEI2: 355037112838654, màu xA, bên trong có 01 thẻ sim in hàng số 8984048000058980003 và 01 thẻ sim in hàng số 8401180912233043 WDnhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc vợt có cán bằng tre dài 214cm, 01 chiếc đèn pin đội đầu, 01 khẩu trang bằng vải màu đỏ và 01 chiếc mũ len màu đen - xám.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Tường).

Bị cáo Phùng A phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao nhận bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 45/2021/HS-ST

Số hiệu:45/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;