Bản án về tội trộm cắp tài sản số 44/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 3 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 44/2023/HS-ST NGÀY 23/06/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 3 Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 44/2023/TLST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Xuân H, sinh năm 1972; tại Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: 80/109D TQD, Phường MB, quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: 23/17A Tổ A khu phố B, P. TL, Quận 12, Tp.HCM ; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn G và bà Nguyễn Thị T; tiền án: Ngày 03/10/2007 Tòa án nhân dân quận Bình Thanh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 11năm tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo bản án hình sự sơ thẩm số 207/2007/HSST, chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung 7.000.000 đồng; tiền sự: không; nhân thân: Ngày 20/10/1989 Tòa án nhân dân quận 3 xử phạt 01 năm 04 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản của công dân” tại bản án số 166/HSST; Ngày 07/11/1991 Tòa án nhân dân Tp.Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “ Cướp giật tài sản của công dân” tại bản án số 274/HSST; ngày 12/12/1994 Tòa án nhân dân Tp.Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “ Cướp giật tài sản của công dân” tại bản án số 1477/HSST; Ngày 27/7/2017 Tòa án nhân dân Quận Tân Bình xử phạt 02 năm tù về tội “ Trộm cắp tài sản” tại bản án 127/2007/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/01/2019. Bị bắt tạm giữ từ ngày 07/3/2023, tạm giam từ ngày 10/3/2023 tại Trại tạm giam T30 Công an Thành phố Hồ Chí Minh; (có mặt).

2. Nguyễn Hoàng L, sinh năm 1983; tại Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: 28/27/10 PTH, Phường B1, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: 34 Tổ A khu phố B, P. TL, Quận 12, Tp.HCM; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B2 và bà Võ Thị L1; tiền án: Ngày 28/10/2010 Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số 146/2010/HSST, chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung 10.000.000 đồng ; tiền sự: không. Nhân thân : ngày 12/4/2007 Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh xử phạt 02 năm 06 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số 77/2007/HSST; ngày 19/7/2016 Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù giam về tội “Cướp giật tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số 55/2016/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/8/2020. Bị bắt tạm giữ từ ngày 07/3/2023, tạm giam từ ngày 10/3/2023 tại Trại tạm giam T30 Công an Thành phố Hồ Chí Minh; (có mặt).

- Người bị hại:

1. Bà Trần Nguyễn Hà A1, sinh năm 2007 HKTT : 101/18/11A DT, phường MN, Quận Phú Nhuận, Tp.HCM Có bà Trần Thị H1 sinh năm 1979 là người giám hộ.

2. Ông Nguyễn Ngọc Hữu A2, sinh năm 2003 HKTT : 242 ấp Q, xã TA, Huyện Cần Đước, Tỉnh Long An.

Nơi ở hiện tại : 351A LLQ, Phường N, Quận 11, Tp.HCM - Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Bà Nguyễn Thị Cẩm V, sinh năm 1971 HKTT : 242 ấp Q, xã TA, Huyện Cần Đước, Tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên Nguyễn Xuân H và Nguyễn Hoàng L rủ nhau thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Khoảng 18 giờ ngày 03/03/2023, H điều khiển xe Future II biển số 59F2-243.52 đến phòng trọ L thuê ở 34 tổ MH, Kp B phường TL, Quận 12 rồi chở L đi trộm cắp tài sản. Đến khoảng 19 giờ 15 phút cùng ngày,cả hai đến trước cửa hàng tiện lợi “ 7 Eleven” số 10A TQT, phường VTS, Quận 3 thì nhìn thấy chiếc xe đạp điện hiệu Pega Pixel của em Trần Nguyễn Hà A1 (sinh ngày 12/11/2007) đang dựng trước cửa hàng không ai trông coi. Lúc này, L xuống xe, H chạy xe dựng kế bên chiếc xe đạp điện và dùng tay phải đụng vào cổ xe xem khóa cổ không, thấy xe không khóa cổ nên L đến đẩy chiếc xe đạp điện xuống lòng đường. Sau đó, L ngồi lên xe đạp điện và được H chạy xe theo đẩy đi về khu vực ngã 6 Gò Vấp, quận Gò Vấp bán cho một người phụ nữ (không rõ lai lịch) với giá 2.200.000 đồng và chia đôi mỗi người được 1.100.000 đồng tiêu xài hết.

Đến khoảng 18 giờ ngày 06/3/2023, H tiếp tục chạy xe Honda Future II biển số:

59F2-24352 đến chở L đi qua các tuyến đường trên địa bàn Quận 3 để tìm tài sản trộm cắp. Khi đến trước cửa hàng tiện lợi số 62 PNT, phường VTS, Quận 3 thì H thấy mấy chiếc xe máy dựng trên vỉa hè không ai trông coi nên H cho xe quay lại và chỉ L lấy chiếc xe Wave Alpha, màu xanh dương, biển số:  62L1-975XX (của anh Nguyễn Ngọc Hữu A2). Hùng dựng xe máy, giả vờ đi vào cửa hàng để mua thức ăn, cùng lúc này, L đã lén lút dắt chiếc xe máy Wave Alpha xuống lề đường, H đi ra lên xe của mình chạy đẩy L ngồi trên chiếc xe Wave Alpha đi. Khi cả hai đẩy xe về đến khi vực chợ Cải, Quận 12 thì H gọi điện thoại cho một người đàn ông (không rõ lai lịch) đến cùng H đẩy xe đi bán còn L ngồi đợi ở quán cà phê lề đường. Một lúc sau, H quay lại nói với L bán xe được 6.500.000 đồng và chia đôi tiền bán xe nhưng do L nợ H 250.000 đồng trước đó nên H đưa cho L 3.000.000 đồng, cả hai tiêu xài cá nhân hết.

Qua truy xét, ngày 07/3/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3 đã tiến hành bắt khẩn cấp, khởi tố các bị can để điều tra, xử lý.

Quá trình điều tra, các bị can Nguyễn Xuân H và Nguyễn Hoàng L đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên, phù hợp với toàn bộ tài liệu, chứng cứ được thu thập trong hồ sơ vụ án.

Tại bản Kết luận đinh giá số 22/KL-HĐĐGTS ngày 23/3/2023 và số 26/KL- HĐĐGTS ngày 29/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 3 kết luận: Tại thời điểm tháng 3/2023 chiếc xe đạp hiệu Pera Pixel trị giá 6.833.000 đồng; chiếc xe Wave Alpha biển số  62L1-975XX trị giá 14.000.000đ (Bút lục 80,81,82,83).

Vật chứng vụ án:

- Thu giữ của Nguyễn Xuân H:

+ Honda Future II BKS: 01 xe máy hiệu 59F2- 243.XX; số khung: 7624KY020589; số máy: JC76E1067934. Qua xác minh biển số trên do ông Lê Hùng D (Sinh năm: 1999; HKTT: 80/109D TQD, Phường MB, Quận 3) đứng tên chủ sở hữu, là con của bị can Nguyễn Xuân H. Ông D cho bị can H mượn để chạy xe ôm.

+ 01 đôi bao tay; 01 quần rằn ri dài túi hộp; 01 áo tay ngắn phía trong có ghi chữ CTY MINH KHANG; 01 áo khoác xanh lá cây có ghi chữ Grap; 01 nón bảo hiểm có ghi chữ Gojeck;

+ 01 điện thoại di động hiệu OPPO Reno 7;

- Thu giữ của bị can Nguyễn Hoàng L:

+ 01 mũ lưỡi trai màu rằn ri; 01 áo khoác màu vàng có chữ Raruvan trên ngực trái; 01 áo sơ mi bảo vệ màu xanh da trời có chữ “Liem Chinh Security”; 01 quần short jean màu xanh; 01 nón bảo hiểm có chi chữ Grap;

+ 02 đầu đoản dùng bẻ khóa xe; 01 tay vặn tuýt chữ L dùng để gắn đầu đoản;

+ 01 điện thoại di động Nokia 105 màu đen; 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A10S màu xanh.

Tất cả đã được nhập kho vật chứng Công an Quận 3 (Bút lục 75).

- 02 đĩa CD lưu trữ hình ảnh vụ việc bị can L và H thực hiện hành vi trộm cắp tài sản ngày 03, 6/3/2023 tại số 10A TQT và 62 PNT, phường VTS, Quận 3 (kèm theo hồ sơ vụ án).

Trách nhiệm dân sự: Bị hại Trần Nguyễn Hà A1 yêu cầu bồi thường số tiền 6.000.000 đồng, Nguyễn Ngọc Hữu A2 yêu cầu được bồi thường số tiền là 19.000.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 46/CT-VKS-Q3 ngày 12/5/2023, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 đã truy tố các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay :

- Các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu. Lời nói sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Người bị hại : Em Trần Nguyễn Hà A1 yêu cầu bồi thường số tiền 6.833.000 (sáu triệu tám trăm ba mươi ba ngàn) đồng, Ông Nguyễn Ngọc Hữu A2 yêu cầu được bồi thường số tiền là 19.000.000 (mười chín triệu) đồng, các bị cáo đồng ý bồi thường cho các bị hại.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 đề nghị xử phạt bị cáo H từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù đến 03 (ba) năm tù giam; xử phạt bị cáo L từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù đến 03 (ba) năm tù giam ; Giao trả 01 xe máy hiệu 59F2- 243.XX; số khung: 7624KY020589; số máy: JC76E1067934 cho ông Lê Hùng D sinh năm: 1999; HKTT: 80/109D TQD, Phường MB, Quận 3 đứng tên chủ sở hữu, do D không biết bị cáo Nguyễn Xuân H sử dụng làm phương tiện phạm tội; 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A10S màu xanh không liên quan đến vụ án nghĩ nên giao trả bị cáo Nguyễn Hoàng L; tịch thu và nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu OPPO Reno 7, 01 điện thoại di động Nokia 105 màu đen; tịch thu và tiêu hủy: 01 đôi bao tay; 01 quần rằn ri dài túi hộp; 01 áo tay ngắn phía trong có ghi chữ CTY MINH KHANG; 01 áo khoác xanh lá cây có ghi chữ Grap; 01 nón bảo hiểm có ghi chữ Gojeck; 01 mũ lưỡi trai màu rằn ri; 01 áo khoác màu vàng có chữ Raruvan trên ngực trái; 01 áo sơ mi bảo vệ màu xanh da trời có chữ “Liem Chinh Security”; 01 quần short jean màu xanh; 01 nón bảo hiểm có chi chữ Grap; 02 đầu đoản dùng bẻ khóa xe;

01 tay vặn tuýt chữ L dùng để gắn đầu đoản; tiếp tục lưu hồ sơ vụ án 02 đĩa CD lưu trữ hình ảnh vụ việc bị can L và H thực hiện hành vi trộm cắp tài sản ngày 03, 06/3/2023 tại số 10A TQT và 62 PNT, phường VTS, Quận 3.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra, truy tố của Cơ quan điều tra Công an Quận 3, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3, kiểm sát viên đã thực hiện các hành vi, quyết định tố tụng đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo Bộ luật tố tụng hình sự qui định. Quá trình điều tra bị cáo cũng không có bất cứ ý kiến hoặc khiếu nại gì về các hành vi, quyết định của Cơ quan tố tụng cũng như người tiến hành tố tụng. Vì vậy có cơ sở xác định các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp với nội dung Biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm do Công an Phường VTS, Quận 3 lập ngày 03/3/2023 (BL 40); và Biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm do Công an Phường VTS, Quận 3 lập ngày 06/3/2023 (BL 54); phù hợp nội dung các lời khai của bị hại, nhân chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra. Vì vậy đã có đủ cơ sở kết luận như sau: Ngày 03/3/2023 và 06/3/2023 các bị cáo đã lén lút lấy trộm tài sản là chiếc xe đạp điện hiệu Pega Pixel trước cửa hàng tiện lợi “7 Eleven” số 10A TQT, phường VTS, Quận 3 của em Trần Nguyễn Hà A1 và chiếc xe Wave Alpha biển số:  62L1-975XXcủa ông Nguyễn Ngọc Hữu A2 trước cửa hàng tiện lợi số 62 PNT, phường VTS, Quận 3 với tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 20.833.000 (hai mươi triệu tám trăm ba mươi ba ngàn) đồng tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[3] Xét, các bị cáo biết rõ hành vi trộm cắp tài sản của người khác là sai trái, vi phạm pháp luật nhưng vì lòng tham nên vẫn bất chấp xem thường sự trừng trị của pháp luật cố ý thực hiện việc phạm tội. Hành vi do các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã không chỉ trực tiếp xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an ở địa phương.

[4] Xét, bị cáo L ngày 28/10/2010 Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số 146/2010/HSST, chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung 10.000.000 đồng chưa được xóa án tích lần phạm tội này là tái phạm thuộc trường hợp quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Xét, bị cáo H ngày 03/10/2007 Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 11 năm tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo bản án hình sự sơ thẩm số 207/2007/HSST, chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung 7.000.000 đồng chưa được xóa án tích lần phạm tội này là tái phạm thuộc trường hợp quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Tại các ngày 03, 06/3/2023 tại số 10A TQT và 62 PNT, phường VTS, Quận 3, các bị cáo đã cùng nhau thực hiện hai vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận 3 là phạm tội hai lần trở lên thuộc trường hợp quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Xét, bị cáo L có nhân thân xấu: ngày 12/4/2007 Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh xử phạt 02 năm 06 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số 77/2007/HSST; ngày 19/7/2016 Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù giam về tội “Cướp giật tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số 55/2016/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/8/2020.

- Xét, bị cáo H có nhân thân xấu: ngày 20/10/1989 Tòa án nhân dân quận 3 xử phạt 01 năm 04 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” tại bản án số 166/HSST; Ngày 07/11/1991 Tòa án nhân dân Tp.Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “ Cướp giật tài sản của công dân” tại bản án số 274/HSST; ngày 12/12/1994 Tòa án nhân dân Tp.Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “ Cướp giật tài sản của công dân” tại bản án số 1477/HSST; Ngày 27/7/2017 Tòa án nhân dân Quận Tân Bình xử phạt 02 năm tù về tội “ Trộm cắp tài sản” tại bản án 127/2007/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/01/2019. Vì vậy cần phải có mức án nghiêm khắc mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục các bị cáo.

[6] Tuy nhiên cũng xét, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn, hối lỗi nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Trong vụ án này, các bị cáo không có sự bàn bạc trước, không có sự câu kết chặt chẽ nên thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn do đó Hội đồng xét xử áp dụng Điều 17 và Điều 58 Bộ luật Hình sự quy định về xử phạt trong trường hợp có đồng phạm để xem xét khi lượng hình đối với các bị cáo.

[8] Từ những cơ sở trên, nghĩ cần căn cứ Điều 50 Bộ luật Hình sự quy định về căn cứ quyết định hình phạt, Điều 38 Bộ luật Hình sự quy định về tù có thời hạn; áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định về khung hình phạt áp dụng; áp dụng Điều 17 và Điều 58 Bộ luật Hình sự quy định về xử phạt trong trường hợp có đồng phạm; áp dụng các điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm g, h, i khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự để quyết định một hình phạt tương xứng với tính chất mức độ phạm tội của các bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 đôi bao tay; 01 quần rằn ri dài túi hộp; 01 áo tay ngắn phía trong có ghi chữ CTY MINH KHANG; 01 áo khoác xanh lá cây có ghi chữ Grap; 01 nón bảo hiểm có ghi chữ Gojeck; 01 mũ lưỡi trai màu rằn ri; 01 áo khoác màu vàng có chữ Raruvan trên ngực trái; 01 áo sơ mi bảo vệ màu xanh da trời có chữ “Liem Chinh Security”; 01 quần short jean màu xanh; 01 nón bảo hiểm có chi chữ Grap không có giá trị sử dụng nghĩ nên tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với 02 đầu đoản dùng bẻ khóa xe; 01 tay vặn tuýt chữ L dùng để gắn đầu đoản là phương tiện phạm tội nghĩ nên tịch thu và tiêu hủy;

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A10S màu xanh không liên quan đến vụ án nghĩ nên giao trả bị cáo Nguyễn Hoàng L.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu OPPO Reno 7, 01 điện thoại di động Nokia 105 màu đen là phương tiện phạm tội nghĩ nên tịch thu và nộp ngân sách Nhà nước.

- Giao trả 01 xe máy hiệu 59F2- 243.XX; số khung: 7624KY020589; số máy: JC76E1067934 cho ông Lê Hùng D sinh năm: 1999; HKTT: 80/109D TQ, Phường MB, Quận 3 đứng tên chủ sở hữu do không biết bị cáo Nguyễn Xuân H sử dụng làm phương tiện phạm tội.

- Đối với 02 đĩa CD lưu trữ hình ảnh vụ việc bị can L và H thực hiện hành vi trộm cắp tài sản ngày 03, 06/3/2023 tại số 10A TQT và 62 PNT, phường VTS, Quận 3 tiếp tục lưu hồ sơ vụ án.

[10] Trách nhiệm dân sự:

- Em Trần Nguyễn Hà A1 yêu cầu bồi thường trị giá tài sản bị mất trộm là 6.833.000 đồng các bị cáo tự nguyện đồng ý liên đới bồi thường là không trái quy định của pháp luật nghĩ nên chấp nhận.

- Ông Nguyễn Ngọc Hữu A2 yêu cầu bồi thường trị giá tài sản bị mất trộm là 19.000.000 đồng các bị cáo tự nguyện đồng ý liên đới bồi thường là không trái quy định của pháp luật nghĩ nên chấp nhận.

[11] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 tại phiên tòa là phù hợp tính chất, mức độ phạm tội, phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử, nghĩ nên chấp nhận.

[12] Các bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 17 và Điều 58; các điểm g, h, i khoản 1 Điều 52 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với Nguyễn Xuân H.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 17 và Điều 58; các điểm g, h, i khoản 1 Điều 52 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với Nguyễn Hoàng L.

Căn cứ điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ các Điều 331, 333, 336 và Điều 337 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Xuân H và Nguyễn Hoàng L đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt : Nguyễn Xuân H 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 07/3/2023.

Xử phạt : Nguyễn Hoàng L 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 07/3/2023.

- Tịch thu và tiêu hủy 01 đôi bao tay; 01 quần rằn ri dài túi hộp; 01 áo tay ngắn phía trong có ghi chữ CTY MINH KHANG; 01 áo khoác xanh lá cây có ghi chữ Grap;

01 nón bảo hiểm có ghi chữ Gojeck; 01 mũ lưỡi trai màu rằn ri; 01 áo khoác màu vàng có chữ Raruvan trên ngực trái; 01 áo sơ mi bảo vệ màu xanh da trời có chữ “Liem Chinh Security”; 01 quần short jean màu xanh; 01 nón bảo hiểm có chi chữ Grap; 02 đầu đoản dùng bẻ khóa xe; 01 tay vặn tuýt chữ L dùng để gắn đầu đoản.

- Giao trả Nguyễn Hoàng L 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A10S màu xanh.

- Tịch thu và nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu OPPO Reno 7, 01 điện thoại di động Nokia 105 màu đen.

- Giao trả 01 xe máy hiệu 59F2- 243.XX; số khung: 7624KY020589; số máy: JC76E1067934 cho ông Lê Hùng D sinh năm 1999 đứng tên chủ sở hữu.

- Tiếp tục lưu hồ sơ vụ án 02 đĩa CD lưu trữ hình ảnh vụ việc bị can L và H thực hiện hành vi trộm cắp tài sản ngày 03, 06/3/2023 tại số 10A TQT và 62 PNT, phường VTS, Quận 3, Tp.Hồ Chí Minh.

(Tài sản giao trả, tịch thu nộp Ngân sách Nhà Nước và tiêu hủy được ghi trong Lệnh nhập kho vật chứng số 674/LNK-CQCSĐT-CSHS ngày 29/3/2023 của Cơ Quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3).

Buộc Nguyễn Xuân H và Nguyễn Hoàng L liên đới bồi thường thiệt hại về tài sản cho em Trần Nguyễn Hà A1 số tiền 6.833.000 (sáu triệu tám trăm ba mươi ba ngàn) đồng và Nguyễn Ngọc Hữu A2 số tiền là 19.000.000 (mười chín triệu) đồng.Thực hiện khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành, nếu bên phải thi hành án không thực hiện đúng việc thanh toán tiền, thì bên phải thi hành án phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.

Buộc mỗi bị cáo chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm. Buộc Nguyễn Xuân H và Nguyễn Hoàng L phải liên đới chịu 1.291.650 đồng án phí Dân sự sơ thẩm, cụ thể: mỗi bị cáo phải chịu 645.825 đồng án phí Dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh trong trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án, hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 44/2023/HS-ST

Số hiệu:44/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 3 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: đang cập nhật
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;