Bản án về tội trộm cắp tài sản số 44/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH – TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 44/2022/HS-ST NGÀY 10/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 8 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 31/2022/TLST-HS ngày 20 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Lê Công K (N), sinh năm 1992; tại tỉnh Long An; Trú tại: Ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn Giáo: Không; Quốc Tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 04/12; Con ông L và bà P; Bị cáo có vợ tên Bùi Thị Cẩm T và 01 con sinh năm 2017; Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 28/01/2021, bị Công an xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản (chưa đóng phạt).

Nhân thân:

+ Ngày 16/5/2011, bị công an huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi xâm phạm sức khỏe người khác.

+ Ngày 18/11/2011, bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong ngày 21/3/2013.

+ Ngày 06/3/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xử phạt 03 năm tù về tội cố ý gây thương tích, chấp hành xong ngày 27/4/2016.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 11/5/2022 cho đến nay (Có mặt tại phiên toà).

2. Nguyễn Hòa K1, sinh năm 1994; tại thành phố Cần Thơ; ĐKTT: Ấp A, xã N, huyện P, thành phố Cần Thơ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn Giáo: Không; Quốc Tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ học vấn: 09/12; Con ông Nguyễn Hòa B và bà Bùi Thị E; Bị cáo chưa có vợ và con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay (Có mặt tại phiên toà).

- Bị hại: Huỳnh Khắc T, sinh năm 1952; Địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre. (Vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Trương Thanh L, sinh năm 1990; Địa chỉ: Khu phố A, phường B, thành phố B, tỉnh Bến Tre. (Vắng mặt)

+ Mạch Kính H, sinh năm 1961; Địa chỉ: Số X đường T, phường A, thành phố B, tỉnh Bến Tre. (Vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 24/6/2021, Lê Công K trong lúc đi tìm nấm mối thì phát hiện nhà ông Huỳnh Khắc T thuộc ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre có một bộ bàn ghế đẹp nên nảy sinh ý định lấy trộm, K lấy điện thoại di động của mình chụp lại bộ bàn ghế trên rồi đi về. Khoảng 08 giờ, ngày 25/6/2021, K đến nhà của Trương Thanh L chơi và nói với L mình có 01 bộ bàn ghế đẹp muốn bán và lấy hình cho L coi, L đồng ý mua với giá 1.800.000 đồng. Sau đó, K về nhà của Phan Tấn Đ, ngụ ấp P, xã P, huyện C chơi, tại nhà Đ còn có Nguyễn Hòa K1. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, K điều khiển xe mô tô không có biển số của K đi ra ngoài thì K1 xin đi theo chơi, khi đến nhà của ông T, K và K1 đi bộ vào, K dùng chân đạp cửa ở phía sau nhà để tạo một lỗ trống chui vào bên trong thì K1 hỏi “làm gì vậy”, K trả lời “ăn trộm bộ bàn”, K1 đồng ý và cùng với K chui vào bên trong lấy bộ bàn ghế đem ra ngoài cất giấu ở bụi cây ven đường rồi quay trở về nhà Đ, K điện thoại cho L kêu L tìm thuê xe chở bộ bàn ghế.

Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, L gọi cho K thông báo đã thuê được xe ba gác của Mạch Kính H chở bộ bàn ghế nên K hẹn L gặp ở cầu Hữu Phước. Sau đó, K điều khiển xe chở K1 ra nơi cất giấu bộ bàn ghế để K1 ôm bộ bàn ghế cho K chở ra cầu Hữu Phước giao cho L. Sau khi nhận bộ bàn ghế từ K thì L nói vài bữa sẽ trả tiền rồi cùng H chở bộ bàn ghế về. Khi đi được khoảng một đoạn thì bị lực lượng Công an xã Phước Thạnh kiểm tra, xác minh và thu giữ toàn bộ tang vật.

Vật chứng thu giữ: một mặt bàn bằng gỗ, màu nâu đỏ, kích thước 1.6m x 78.5cm x 11.5cm; một mặt khung mặt bàn bằng gỗ, màu nâu, kích thước 1.25m x 67cm; một khung chân bàn bằng gỗ, màu đỏ, kích thước 1.3m x 44cm và 04 đôn rời có kích thước bằng nhau dài 55cm x 10cm; 01 đôn rời có kích thước dài 53cm x 08cm; 04 cái ghế đai bằng gỗ màu nâu đỏ, kích thước 93cm x 43cm x 40cm, mặt ghế bằng nệm màu đỏ; 01 xe mô tô không có biển số màu xanh đen của Lê Công K (xe này K mua phụ tùng phế liệu và tự ráp).

Tại bản kết luận định giá số 132 ngày 27/01/2022 của Hội đồng định giá huyện Châu Thành kết luận: Một bàn bằng gỗ, màu nâu đỏ, kích thuớc 1,6m x 78,5m x 11,5cm; một khung mặt bàn bằng gỗ, màu nâu, kích thước 1,25cm x 67cm; một khung chân bàn bằng gỗ, màu đỏ, kích thước 1,3m x 44cm và 04 đôn rồi mỗi đôn có kích thước bằng nhau là 55cm x đường kính 10cm; 01 đôn rời có kích thước dài là 53cm x đường kính 8cm; 04 ghế đai bằng gỗ màu nâu đỏ, có kích thước 93cm x 43cm x 40cm, mặt ghế bằng nệm màu đỏ giá trị 77.800.000 đồng.

Hiện Cơ quan CSĐT Công an huyện Châu Thành đã trả lại bộ bàn ghế trên cho bị hại Huỳnh Khắc T và ông T không có yêu cầu gì khác.

Cáo trạng số 39/CT-VKSCT ngày 20/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành truy tố các bị cáo Lê Công K và Nguyễn Hòa K1 về “Tội Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 38 Bộ Luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Lê Công K từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm 06 tháng tù.

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58; Điều 38 Bộ Luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Nguyễn Hòa K1 từ 02 năm đến 03 năm tù.

Trách nhiệm dân sự: Ghi nhận ông Huỳnh Khắc T đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt là bộ bàn ghế và không có yêu cầu gì khác.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 xe mô tô không có biển số màu xanh đen.

Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố, và nói lời nói sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt. Các bị cáo không có ý kiến. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị tiếp tục xét xử. Hội đồng xét xử xét thấy những người vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử và đã có lời khai rõ ràng trong quá trình điều tra nên tiếp tục xét xử là phù hợp quy định tại Điều 292, 293 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa là phù hợp với biên bản sự việc và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ cơ sở xác định: Khoảng 21 giờ, ngày 25/6/2021, tại ấp Phú Thạnh, xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, Lê Công K và Nguyễn Hòa K1 có hành vi đột nhập vào nhà của ông Huỳnh Khắc T lấy trộm 01 bàn bằng gỗ, màu nâu đỏ, kích thuớc 1,6m x 78,5m x 11,5cm; một khung mặt bàn bằng gỗ, màu nâu, kích thước 1,25cm x 67cm; một khung chân bàn bằng gỗ, màu đỏ, kích thước 1,3m x 44cm và 04 đôn rời mỗi đôn có kích thước bằng nhau là 55cm x đường kính 10cm; 01 đôn rời có kích thước dài là 53cm x đường kính 8cm; 04 ghế đai bằng gỗ màu nâu đỏ, có kích thước 93cm x 43cm x 40cm, mặt ghế bằng nệm màu đỏ là tài sản của ông Huỳnh Khắc T.

[3] Hành vi của các bị cáo là hành vi cố ý lén lút chiếm đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác, khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Tổng giá trị tài sản của bị hại mà các bị cáo chiếm đoạt là 77.800.000 đồng. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Lê Công K và Nguyễn Hòa K1 đã phạm “Tội trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cáo trạng và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội.

[4] Các bị cáo biết việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, bị xã hội lên án nhưng vì động cơ tư lợi bất chính, các bị cáo đã thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Trên thực tế các bị cáo đã thực hiện xong hành vi trộm cắp tài sản như ý định của các bị cáo. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự xã hội tại địa phương nên cần phải được xử lý nghiêm và kịp thời.

[5] Các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội nên phải bị xử lý theo chế định đồng phạm. Tuy nhiên, giữa các bị cáo không có sự tổ chức, không có câu kết chặt chẽ nên đây là vụ án đồng phạm giản đơn. Bị cáo K1 giữ vai trò giúp sức; bị cáo K là người rủ rê, trực tiếp lấy trộm tài sản và liên hệ người khác tiêu thụ, đồng thời bị cáo K có nhân thân xấu (có 01 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản, hai lần bị xét xử về tội trộm cắp tài sản và cố ý gây thương tích) nên phải chịu mức hình phạt cao hơn so với bị cáo K1 là phù hợp.

[6] Xét các tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo K có ông ngoại và bà cố là người có công với cách mạng, có 01 người con nhỏ chưa thành niên nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo Nguyễn Hòa K1 có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[7] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của người khác. Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng nên cần thiết phải áp dụng hình phạt tù để cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và có tác dụng phòng ngừa chung theo quy định tại Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[8] Trách nhiệm dân sự: Ông Huỳnh Khắc T đã nhận lại toàn bộ tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì khác nên ghi nhận. Ông Trương Thanh L không yêu cầu các bị cáo bồi thường tiền đã thuê xe nên ghi nhận.

[9] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 xe mô tô không có biển số màu xanh đen của Lê Công K mua phế liệu và tự ráp phụ tùng. Do không xác định được nguồn gốc hợp pháp của xe nên giao lại xe này cho Công an huyện Châu Thành xác minh xử lý theo thẩm quyền.

[10] Đối với Trương Thanh L khi mua bộ bàn ghế không biết đây là tài sản do K và K1 phạm tội mà có; Mạch Kính H khi nhận chở thuê bộ bàn ghế từ Trương Thanh L không biết đây là tài sản do K và K1 phạm tội mà có, nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Châu Thành không truy cứu trách nhiệm hình sự là phù hợp.

[11] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí là 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Công K (N) và Nguyễn Hòa K1 phạm “Tội trộm cắp tài sản”;

 [1] Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 17, Điều 58, Điều 38 của Bộ Luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Lê Công K (N) 03 (ba) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 11/5/2022.

[2] Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58, Điều 38 của Bộ Luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hòa K1 02 (hai) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

[3] Trách nhiệm dân sự:

- Ghi nhận ông Huỳnh Khắc T đã nhận lại toàn bộ tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì khác.

- Ghi nhận ông Trương Thanh L không yêu cầu các bị cáo bồi thường tiền đã thuê xe.

[4] Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

Về xử lý vật chứng:

Giao 01 xe mô tô không có biển số màu xanh đen cho Công an huyện Châu Thành xác minh xử lý theo thẩm quyền đối với xe không rõ nguồn gốc.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Châu Thành với Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre).

[5] Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Về án phí hình sự sơ thẩm:

Buộc bị cáo Lê Công K và Nguyễn Hòa K1, mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

110
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 44/2022/HS-ST

Số hiệu:44/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;