TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM GIÀNG, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 43/2020/HS-ST NGÀY 07/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 07 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh D xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 41/2020/TLST-HS ngày 16- 7 -2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2020/QĐXXST-HS ngày 24- 7 -2020 đối với bị cáo:
Hoàng Đình Đ, sinh năm 1991, tại xã HS, huyện HT, tỉnh TH; nơi cư trú thôn HH, xã HS, huyện HT, tỉnh TH; nghề nghiệp lao động tự do; trình độ văn hóa 8/12; dân tộc kinh; giới tính nam; tôn giáo không; quốc tịch Việt Nam; con ông Hoàng Đình H và bà Nguyễn Thị T; có vợ là Hoàng Thị Thanh N, sinh năm 1992(đang sống ly thân) và 01 con sinh năm 2010; tiền sự: không; Tiền án:
- Bản án số 10/2014/HSST ngày 24-11-2014, Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, xử phạt 14 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ( giá trị tài sản 34.400.000đ). Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 23-10-2015; chưa chấp hành xong nghĩa vụ án và tiền truy thu sung quỹ Nhà nước;
- Bản án số 89/2016/HSST ngày 07-9-2016, Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, xử phạt 18 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ( giá trị tài sản 16.800.000đ). Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 08-12-2017; chưa chấp hành xong trách nhiệm dân sự;
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 15-5-2020 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh D, có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo: bà Nguyễn Thị L - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh D (có mặt tại phiên tòa).
Người bị hại: anh Trịnh Văn H1, sinh năm 1998; trú tại: thôn LX, xã CP, huyện CG, tỉnh HD (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ 30' ngày 09-5-2020, Hoàng Đình Đ đi bộ đến quán trà sữa Thảo Milk ở thôn Lê Xá, xã Cẩm Phúc, huyện C uống nước. Sau khi gọi nước uống, Đ quan sát thấy trên mặt quầy giao dịch có chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu trắng nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, khi anh Trịnh Văn H1 (chủ quán) đang đứng rửa cốc chén, tư thế mặt quay vào, lưng quay ra ngoài. Lợi dụng sơ hở của anh H1 không để ý điện thoại, Đ lén lút tiến lại gần quầy giao dịch lấy điện thoại rồi nhanh chóng đi ra ngoài đường. Khi anh H1 rửa cốc xong quay lại thấy Đ đang đi ra cửa, tay cầm điện thoại giống điện thoại của mình, nhìn lại trên mặt bàn quầy biết mất điện thoại anh H1 đuổi theo nhưng không kịp. Đ tháo sim của anh H1 vất đi, lắp sim của mình vào để sử dụng. Khoảng 11 giờ ngày 11-5-2020, khi Đ đang ở xóm 2, thôn Quý Dương, xã Tân Trường, huyện C thì Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C phối hợp cùng Công an xã Tân Trường kiểm tra thu giữ chiếc điện thoại Iphone 6S màu trắng trong tình trạng bị bung dời màn hình, xây xước nhiều chỗ ở vỏ màn hình.
Ngày 07-6-2020, anh H1 nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường;
Kết luận định giá tài sản số 23/KL- HĐĐG-TTHS ngày 12-5-2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND huyện C, kết luận: Chiếc điện thoại di động Iphone 6S màu trắng trị giá 1.700.000đ.
Cáo trạng số 42/CT-VKS ngày 15-7-2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố bị cáo Hoàng Đình Đ về Tội trộm cắp tài sản theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Trong phần tranh luận tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Hoàng Đình Đ phạm tội Tội trộm cắp tài sản. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h,s khoản 1 và khoản Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Đề nghị xử phạt bị cáo Hoàng Đình Đ từ 06 đến 09 tháng tù, thời hạn tính từ ngày bắt tạm giam 15-5-2020; không áp dụng hình phạt bổ sung;
Về vật chứng và TNDS: không phải giải quyết.
Về án phí: áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.
Người bào chữa cho bị cáo phát biểu tại phiên tòa: thừa nhận hành vi lén lút chiếm đoạt điệnt thoại của bị cáo; khẳng định cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố là có cơ sở. Bị cáo thành khẩn khai báo; thuộc đối tượng hộ cận nghèo, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, mới học hết lớp 8, bố mẹ mất sớm, trong thời gian tạm giam phát hiện ra có u trong người hiện nay tại trại vẫn phải uống thuốc theo dõi; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo ở mức 04 -06 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận lợi dụng lúc anh H1 quay mặt vào trong không để ý bị cáo đã chiếm đoạt chiếc điện thoại iphone 6S và khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố bị cáo là đúng, không có ý kiến hay khiếu nại về Kết luận định giá.
Lời nói sau cùng trong phiên tòa: bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình nuôi con nhỏ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo: lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo, lời khai người bị hại anh H tại cơ quan điều tra; phù hợp với Biên bản vụ việc lập hồi 11 giờ ngày 11-5-2020 tại thôn Quý Dương, xã Tân Trường, huyện C; Kết luận định giá số 23/KL- HĐĐG-TTHS ngày 12- 5-2020 và các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: vào khoảng 22 giờ 00 phút ngày 09-5-2020, tại quán trà sữa Thảo Milk ở thôn Lê Xá, xã Cẩm Phúc, huyện C, lợi dụng sơ hở việc quản lý tài sản của chủ quán, Hoàng Đình Đ đã lén lút chiếm đoạt được 01 điện thoại di động Iphone 6S màu trắng trị giá 1.700.000đ của anh Trịnh Văn H1đang để trên mặt bàn quầy ba trong quán. Bị cáo Đ là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc lấy trộm tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt dưới 2.000.000đ nhưng bị cáo đã bị kết án về Tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ( Điều 175), tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) chưa được xóa án tích, nay tiếp tục vi phạm; do vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành Tội trộm cắp tài sản. Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố bị cáo về Tội trộm cắp tài sản theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của anh H, gây mất trật tự trị an xã hội và tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bị cáo đã từng bị xét xử về tội chiếm đoạt tài sản nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội mới. Vì vậy, cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo trở thành người công dân tốt .
[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo đã từng bị Tòa án 2 lần xét xử về tội chiếm đoạt nên đánh giá là người có nhân thân xấu.
Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và phạm tội thuộc trường hợp gây thiệt hại không lớn; bị cáo có bố đẻ là ông Hoàng Đình H được UBND tỉnh Thanh Hóa tặng bằng khen đã có thành tích tham gia trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Về hình phạt bổ sung: bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.
[6] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: anh H bị hại đã nhận lại đúng tài sản, không có yêu cầu bồi thường, HĐXX không phải giải quyết.
[7] Về án phí: bị cáo Đạt thuộc diện hộ cận nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo điểm đ khoản 1Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016;
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Tuyên bố bị cáo Hoàng Đình Đ phạm Tội trộm cắp tài sản.
Xử phạt bị cáo Hoàng Đình Đ 08 ( tám) tháng tù, thời hạn tính từ ngày bắt tạm giam 15-5-2020.
Án phí: miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Đ.
Quyền kháng cáo: bị cáo Đ có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Anh H1 (bị hại) vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 43/2020/HS-ST
Số hiệu: | 43/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Giàng - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/08/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về