Bản án về tội trộm cắp tài sản số 41/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐƠN DƯƠNG, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 41/2022/HS-ST NGÀY 08/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08/8/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 40/2022/HSST ngày 19/7/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2022/QĐXXST-HS ngày 25/7/2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Thị Mai Ph; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ; Sinh ngày 25/5/1986 tại Di Linh, Lâm Đồng; Hộ khẩu thường trú: thôn Nam Hiệp 2, xã Ka Đô, Đơn Dương, Lâm Đồng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Vũ Đình Q, sinh năm 1960, nghề nghiệp: làm nông và con bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1960, nghề nghiệp: làm nông; Gia đình có 04 chị em, bị cáo là con lớn nhất trong gia đình, nhỏ nhất sinh nhất năm 1997; Cha, mẹ và các em của bị cáo hiện đang sinh sống ở thôn Tân Phú, xã Đinh Lạc, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng; Chồng: Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1988; Con có 02 con, lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2020; Hiện nay chồng con đang ở tại: thôn Nam Hiệp 2, xã Ka Đô, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chăn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

- Bị hại: Bà Ma L; Sinh năm 1981; Nơi cư trú: thôn K, xã K, Đơn Dương, Lâm Đồng. Có đơn xin xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Vũ Hoàng Ph; Sinh năm 1967; bà Nguyễn Thị Thu H; Sinh năm 1969; Nơi cư trú: Số 278 thôn Nam H1, xã K, Đơn Dương, Lâm Đồng. Vắng mặt.

- Người làm chứng: Chị Trần Xuân Th; Sinh năm 1995; Nơi cư trú: Số 278 thôn Nam H1, xã K, Đơn Dương, Lâm Đồng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào sáng ngày 25/4/2022, Vũ Thị Mai Ph điều khiển xe mô tô BKS 49P5 – 4365 đi từ nhà ở xã Ka Đô đến thị trấn Thạnh Mỹ giải quyết công việc cá nhân. Khi đi đến Trạm Y tế xã Quảng Lập thuộc thôn Quảng Hòa, xã Quảng Lập thì Ph phát hiện 01 xe mô tô BKS 49F1 – 306.68 của bà Ma L đang dựng ở sân, không có ai trông coi và không khóa cổ xe nên Ph đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản bán lấy tiền trả nợ. Thực hiện ý định trên Ph dựng xe mô tô BKS 49P5 – 4365 ở ngoài cổng Trạm Y tế xã Quảng Lập rồi một mình đi vào trong dắt trộm chiếc xe mô tô BKS 49F1 – 306.68 để đi tiêu thụ. Ph dắt xe mô tô trên đến cửa hàng xe máy “Ph H” ở Nam Hiệp 1, xã Ka Đô, do bà Nguyễn Thị Thu H làm chủ và bán xe cho ông Ph (là chồng bà H) với số tiền 27.500.000đ, do không có giấy tờ nên ông Ph trả trước cho Ph 10.000.000đ hẹn hôm sau Ph đưa giấy tờ xe tới thì sẽ trả số tiền còn lại, Ph nhận tiền rồi bỏ đi. Sau đó, hành vi của Ph đã bị bà H phát hiện và trình báo với cơ quan công an. (BL: 37 - 41, 49 - 50, 66 - 71, 76 - 81).

Tại kết luận định giá tài sản số 16/KL - HĐĐGTS ngày 29/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đơn Dương xác định: Chiếc xe mô tô hiệu SH mode, biển kiểm soát 49F1 – 306.68 có giá trị là 49.500.000đ.

Cáo trạng số 38/CT-VKS-ĐD ngày 15/7/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đơn Dương truy tố bị cáo Vũ Thị Mai Ph về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên bản cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vũ Thị Mai Ph phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Vũ Thị Mai Ph mức án từ 24 đến 30 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 48 đến 60 tháng.

Bị cáo không khiếu nại bản cáo trạng, khai nhận: vào ngày 25/4/2022, tại Trạm Y tế xã Quảng Lập, huyện Đơn Dương, bị cáo Ph có hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc xe mô tô nhãn hiệu SH Mode, biển kiểm soát 49F1 – 306.68 của bà Ma L, sau đó đem đến cửa hàng xe máy Ph H bán để lấy tiền trả nợ như cáo trạng đã nêu. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

Bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt đồng thời có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đơn Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đơn Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Do nợ tiền của người khác nên vào ngày 25/4/2022, tại Trạm Y tế xã Quảng Lập, huyện Đơn Dương, Vũ Thị Mai Ph có hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc xe mô tô nhãn hiệu SH Mode, biển kiểm soát 49F1 – 306.68 của bà Ma L, chiếc xe mô tô có giá trị 49.500.000đ.

Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, lời khai bị hại, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận: Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị là 49.500.000đ nêu trên của Vũ Thị Mai Ph đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đơn Dương đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Đánh giá tính chất vụ án: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, bị cáo biết việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn có tiền trả nợ và tiêu xài nên vẫn thực hiện. Xét tính chất, mức độ do hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, thể hiện tính liều lĩnh, coi thường pháp luật. Tài sản bị chiếm đoạt có giá trị lớn. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội.

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo hiện đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi nên cần áp dụng điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo.

[5] Về quyết định hình phạt: Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo nên không cần thiết phải cách ly khỏi xã hội, giao bị cáo về cho chính quyền địa Ph giám sát, giáo dục cũng đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung. Ý kiến đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ.

[6] Về vật chứng:

01 xe mô tô BKS 49F1 – 306.68, hiệu SH Mode , màu đỏ đen; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 024573 của xe mô tô BKS 49F1 – 306.68 xác định là tài sản của bà Ma L nên Cơ quan CSĐT công an huyện Đơn Dương đã trả lại cho bà Ma L.

01 giấy chứng minh nhân dân số 250680353 cấp ngày 05/6/2020 mang tên Vũ Thị Mai Ph, 01 điện thoại di động Iphone 6 plus màu vàng đồng, xét thấy đây là tài sản cá nhân của Vũ Thị Mai Ph và không liên quan đến vụ án nên Cơ quan CSĐT đã trả lại cho Ph.

01 xe mô tô BKS 49P5 – 4365, hiệu Wave S, màu đỏ - xám đen là thuộc sở hữu của bà Nguyễn Thị Ngọc Thiện, do bà Thiện không biết Ph sử dụng xe của mình để đi trộm cắp tài sản vì vậy Cơ quan CSĐT đã trả lại xe mô tô trên cho bà Thiện.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại tài sản bị mất bà Ma L không có yêu cầu gì thêm. Số tiền 10.000.000đ, bà Nguyễn Thị Thu H trả tiền mua xe cho Ph, gia đình Ph đã trả lại cho bà H nên không xem xét.

[7] Đối với ông Vũ Hoàng Ph là người mua tài sản do Vũ Thị Mai Ph trộm cắp. Tuy nhiên, khi mua tài sản ông Ph không biết tài sản do trộm cắp mà có nên không có căn cứ để xử lý.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Vũ Thị Mai Ph phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Thị Mai Ph 18 (Mười tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 (Ba mươi sáu) tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Vũ Thị Mai Ph cho Uỷ ban nhân dân xã Ka Đô, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa Ph trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo theo quy định tại khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Vũ Thị Mai Ph phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Bị hại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 41/2022/HS-ST

Số hiệu:41/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đơn Dương - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;