Bản án về tội trộm cắp tài sản số 40/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CĐ, TỈNH LA

BẢN ÁN 40/2022/HS-ST NGÀY 16/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh LA xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 36/2022/TLST- HS ngày 25 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2022/QĐXXST- HS ngày 30 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Giang Thành G, sinh năm: 1995; tại tỉnh H; Nơi ĐKHKTT: Ấp 3, Vị Tân, thành phố V, tỉnh H; Nơi cư trú: ấp Long Thanh, xã T, huyện C, tỉnh LA; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Con ông: Giang Minh A (chết) và bà Trần Thị N; Vợ: Võ Thị Lan Ch; Con: 01 người sinh năm 2021; Tiền sự: không; Tiền án: Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 06/2022/HSST ngày 17/01/2022 của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, xử phạt Giang Thành G 30.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”, chưa chấp hành xong hình phạt.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 10/6/2022 cho đến nay (có mặt).

- Bị hại: Chị Lý Thị Búp Pha R, sinh năm: 1996 (xin vắng mặt);

Địa chỉ: ấp Phước Vĩnh, xã T, huyện C, tỉnh LA.

- Người có quyền lợi- nghĩa vụ L quan đến vụ án:

1/ Anh Danh L, sinh năm: 1995 (xin vắng mặt);

2/ Bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1960 (vắng mặt);

Cùng địa chỉ: ấp Phước Vĩnh, xã T, huyện C, tỉnh LA.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi của bị cáo: Vào khoảng 18 giờ 30 phút, ngày 26/4/2022, Giang Thành G đi nhờ xe của người bạn tên Võ Nhựt Trường nhà ở xã Phước Tuy, huyện C từ nhà trọ thuộc ấp Long Thanh, xã T đến công ty nhựa Bách Việt tại ấp Phước Vĩnh, xã T, huyện C để làm công nhân. Làm việc đến 04 giờ ngày 27/4/2022 thì G được nghỉ giải lao. G dùng đèn pin trong công ty để rọi đi bộ qua vườn nhà bà Nguyễn Thị T kế công ty để hái rau về ăn. Khi qua vườn nhà bà T, G thấy cửa sau phòng trọ của chị Lý Thị Búp Pha R không khóa nên nảy sinh ý định ý định vào trong tìm tài sản trộm cắp. G mở cửa đi vào phòng, rọi đèn không thấy ai. G thấy cạnh giường ngủ của chị R có 01 cái tủ nhựa màu trắng nên G mở tủ tìm tài sản. G dùng tay kéo ngăn tủ trên cùng bên trái ra, thấy 01 hộp giấy hình vuông, màu vàng bên trong có rất nhiều trang sức bằng vàng nên lấy cắp bỏ vào túi quần Jean bên phải, G bỏ cái hộp lại chỗ cũ, rồi đi theo lối cũ về công ty làm việc. Đến 07 giờ cùng ngày, G trở về phòng trọ, kiểm tra số vàng lấy cắp của chị R gồm: 01 (một) sợi dây chuyền loại mắt xích bằng kim loại màu vàng; 01 (một) mặt dây chuyền bằng kim loại màu vàng, có đính hình tượng phật màu trắng ngà; 01 (một) Chiếc nhẫn kiểu bằng kim loại màu vàng có đính hột đá màu trà; 01 (một) Chiếc nhẫn kiểu bằng kim loại màu trắng, có đính hột đá màu trắng; 01 (một) Chiếc nhẫn trơn bằng kim loại màu vàng có đính hột đá màu trắng; 01 (một) Chiếc nhẫn có gắn hai trái châu bằng kim loại màu vàng;

01 (một) mặt dây chuyền hình Chiếc lá bằng kim loại màu vàng.

Sau đó, G cất hết số vàng vào túi áo sơ mi tay ngắn, sọc nhiễn, màu trắng hồng, treo lên sào quần áo trong phòng trọ, rồi đi ngủ.

Đến 09 giờ cùng ngày, Công an xã T đến mời làm việc, G đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại biên bản và kết luận định giá tài sản số:

18/KL-HĐĐGTS ngày 04/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C, tỉnh LA, kết luận:

1/ 01 (một) sợi dây chuyền vàng 18 kara, loại mắt xích, có tượng phật màu trắng ngà, trọng lượng 02 chỉ 98 phân;

2/ 01 (một) Chiếc nhẫn kiểu vàng 18 kara, đính hột hột đá màu trà, trọng lượng 02 chỉ 16 phân;

3/ 01 (một) Chiếc nhẫn kiểu, màu trắng, vàng 10 kara, đính hột màu trắng, trọng lượng 01 chỉ 08 phân;

4/ 01 (một) Chiếc nhẫn trơn vàng 18 kara, đính hột đá màu trắng, trọng lượng 04 phân;

5/ 01 (một) Chiếc nhẫn vàng 18 kara, có gắn 02 trái châu, trọng lượng 01 chỉ 04 phân;

6/ 01 (một) mặt dây chuyền 18 kara, hình Chiếc lá, trọng lượng 05 phân 08 ly.

Tổng giá trị tài sản: 29.445.000 đồng. (Hai mươi chín triệu bốn trăm bốn mươi lăm nghìn đồng).

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Giang Thành G thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Bị cáo trình bày: Bị cáo bị truy cứu về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng, không oan sai. Bị cáo không có ý kiến về Kết luận định giá tài sản và lời khai của người bị hại, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt mà Hội đồng xét xử công bố tại phiên tòa. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, bị cáo tự nguyện khai báo; không có ai đe dọa, cưỡng ép.

Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời trình bày tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa về diễn biến sự việc và hành vi phạm tội của bị cáo. Chị Lý Thị Búp Pha R đã nhận lại được tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

Bản Cáo trạng số 34/CT-VKSCĐ ngày 24/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh LA truy tố bị cáo Giang Thành G về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Giang Thành G phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Giang Thành G từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Đề nghị miễn phạt tiền theo khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: không đề cập.

Ý kiến của bị cáo về quyết định truy tố của Viện kiểm sát: Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Trong lời nói sau cùng: bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét nội dung vụ án: Qua tranh tụng tại phiên tòa có căn cứ để Hội đồng xét xử kết luận: Vào khoảng 04 giờ ngày 27/4/2022, Giang Thành G đã lén lút vào nhà trọ của Lý Thị Búp Pha R thuộc Ấp Phước Vĩnh, xã T, huyện C lấy trộm số trang sức bằng vàng đem về phòng trọ của G cất giấu. Đến 09 giờ cùng ngày, Công an xã T mời G làm việc, G đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và nộp lại toàn bộ tài sản trộm để trả lại cho chị Pha R. Kết luận định giá tài sản số: 18/KL-HĐĐGTS ngày 04/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C, tỉnh LA, kết luận tổng giá trị tài sản (số trang sức bằng vàng) mà G chiếm đoạt là 29.445.000 đồng.

Tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

…” Như vậy hành vi của bị cáo Giang Thành G đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình Sự, sửa đổi bổ sung năm 2017. Hội đồng xét xử xét thấy truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh LA đối với bị cáo là có căn cứ. Chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa, tuyên bố bị cáo Giang Thành G phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

[3] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo thực hiên hành vi phạm tội khi chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[4] Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện giao lại tài sản trả cho người bị hại; phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; con bị cáo còn nhỏ. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[5] Xét hình phạt đối với bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản của người bị hại; tác động xấu đến nếp sống văn minh lành mạnh; gây mất an ninh trật tự tại địa phương.Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm mới đủ sức răn đe phòng ngừa chung, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật; đồng thời giáo dục bị cáo thành người có ích cho gia đình và xã hội. Với tính chất hành vi, khả năng nhận thức của bị cáo, mức độ hậu quả mà bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo. Bị cáo thực hiên hành vi phạm tội khi chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nên không đủ điều kiện để cho hưởng án treo. Xét bị cáo không có thu nhập nên chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát miễn phạt tiền theo khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo.

[6] Xét trách nhiệm dân sự: Chị Lý Thị Búp Pha R đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xét.

[7] Về án phí: Bị cáo Giang Thành G phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên bố: Bị cáo Giang Thành G phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Giang Thành G: 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Về án phí: Bị cáo Giang Thành G phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc được Tòa án niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

115
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 40/2022/HS-ST

Số hiệu:40/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Đước - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;