Bản án về tội trộm cắp tài sản số 40/2022/HS-ST

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 40/2022/HS-ST NGÀY 17/02/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 17/2022/TLST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2022/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Vũ Trường S Sinh ngày 10 tháng 6 năm 1973; Tại: Đắk Lắk; Nơi cư trú: Tổ dân phố x, phường K, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Thợ xây; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Phúc T và con bà Phạm Thị H. Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị M và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1993, con nhỏ nhất sinh năm 2012.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Ông Đỗ Văn S1 - sinh năm 1963 Địa chỉ: 59B/82 đường T, phường K, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. ( Có mặt)

*Người có quyền nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Trần Thị Bích P. Địa chỉ: Xã D, huyện C, tỉnh Đắk Lắk (Vắng mặt)

2. Ông Nguyễn Văn T. Địa chỉ: TDP x, phường K, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

3. Bà Lê Thị D. Địa chỉ: 59B/82 đường T, phường K, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

*Người làm chứng: Ông Lộc Văn H Địa chỉ: 245 Liên gia x, TDPy, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13h30’ ngày 03/7/2021, Nguyễn Vũ Trường S đi đến nhà ông Đỗ Văn S1 tại địa chỉ 59B/82 đường T, phường K, thành phố B, ăn nhậu cùng ông S và ông Lộc Văn H, trú tại tổ dân phố x, phường E, thành phố B. Sau khi nhậu xong, ông H về trước còn S ở lại phụ ông S1 dọn dẹp nhà. Trong lúc dọn nhà thì S phát hiện thấy có 01 chiếc nhẫn vàng, loại vàng Sài Gòn, khối lượng 3,1 chỉ, trên nhẫn có đính 01 viên đá màu đỏ, của ông S1 ở tại phòng khách nên S lén lút trộm cắp chiếc nhẫn, bỏ vào túi quần rồi đi về nhà cất giấu. Đến ngày 05/7/2021, S mang theo chiếc nhẫn đã trộm cắp được của ông Đỗ Văn S1 đi đến quán cà phê bên đường tại khu vực chợ Kim Châu, xã H, huyện C, tỉnh Đắk Lắk thì gặp 02 thanh niên (chưa rõ nhân thân, lai lịch). Sau đó, S nhờ một trong hai người thanh niên đồng ý mang chiếc nhẫn đi vào chợ Kim Châu bán cho chủ tiệm vàng Bảo Lộc là chị Trần Thị Bích P được số tiền 8.000.000 đồng. Sau khi bán được chiếc nhẫn, người thanh niên đưa cho S số tiền 8.000.000 đồng rồi S cho người thanh niên này số tiền 300.000 đồng. Số tiền còn lại, S dùng tiêu xài cá nhân và trả nợ cho ông Nguyễn Văn T, trú tại tổ dân phố x, phường K, thành phố B, số tiền 1.000.000 đồng, trả nợ cho ông Đỗ Văn S1 số tiền 1.700.000 đồng nhưng S không cho ông T, ông S1 biết tiền là do phạm tội mà có. Sau khi bị mất tài sản, ông Đỗ Văn S1 đã trình báo sự việc đến cơ quan Công an để giải quyết.

Quá trình điều tra, chị Trần Thị Bích P khai nhận, vào khoảng đầu tháng 7/2021, chị P có mua 01 chiếc nhẫn vàng, loại vàng Sài Gòn, khối lượng 3,1 chỉ, trên nhẫn có đính 1 viên đá màu đỏ của 01 người nam thanh niên (không rõ lai lịch) với giá 8.000.000 đồng. Sau khi mua, chị P đã nấu lại, gia công thành một sản phẩm khác rồi bán lại cho người khác. Đối với hạt đá màu đỏ gắn trên nhẫn, do không có giá trị nên chị P vứt bỏ, không rõ địa điểm nên Cơ quan điều tra không thu giữ được.

Tại bản kết luận định giá số 179/KL-HDĐGTS ngày 16/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận 01 nhẫn bằng vàng, loại vàng Sài Gòn, có trọng lượng 3,1 chỉ, có đính 01 viên đá màu đỏ, đã qua sử dụng (tài sản không thu hồi được), trị giá 9.687.500 đồng.

Đi với viên đá màu đỏ không xác định được chủng loại, giá trị hạt, đá đính kèm nên không định giá.

Tại bản cáo trạng số: 41/CT-VKS -HS ngày 13/01/2022 Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột, đã truy tố Nguyễn Vũ Trường S về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Vũ Trường S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản Cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột đã phân tích, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Vũ Trường S phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Vũ Trường S mức án từ 09 tháng đến 12 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, 585, 589 Bộ luật dân sự Ghi nhận sự tự nguyện bồi thường giữa ông Đỗ Văn S1 và bị cáo Nguyễn Vũ Trường S. Buộc bị cáo Nguyễn Vũ Trường S có nghĩa vụ bồi thường cho ông Đỗ Văn S1 số tiền 10.000.000 đồng.

Bị hại ông Đỗ Văn S1 trình bày: Về tội danh thống nhất với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Về mức hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt, cho bị cáo hưởng án treo. Về trách nhiệm dân sự buộc bị cáo bồi thường số tiền 10.000.000 đồng cho bị hại.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Vũ Trường S không bào chữa tranh luận gì, chỉ đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, của Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Xét thấy tại cơ quan điều tra người có quyền nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Bích P, ông Nguyễn Văn T, bà Lê Thị D đã có lời khai đầy đủ, Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ, sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng tới quá trình giải quyết vụ án. Do đó căn cứ vào Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

[2] Về nội dung:

[2.1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo vào khoảng 15 giờ ngày 03/7/2021 tại nhà ông Đỗ Văn S1 ở địa chỉ 59B/82 đường T, phường K, thành phố B, bị cáo S đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 chiếc nhẫn bằng vàng của ông Đỗ Văn S1, trị giá 9.687.500 đồng. Hành vi của bị cáo Nguyễn Vũ Trường S đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Xét tính chất mức độ hành vi của bị cáo Nguyễn Vũ Trường S gây ra là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, trật tự công cộng, mà còn gây mất trật tự an ninh tại địa phương. Bị cáo là người có đủ khả năng nhận thức được hành vi xâm phạm tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác đều sẽ bị pháp luật trừng trị. Song do ý thức coi thường pháp luật, muốn có tiền xài mà không phải lao động nên bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội của mình. Do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi mà bị cáo gây ra , và cần thiết buộc cách ly bị cáo này ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ nghiêm mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội .

[2.2] Về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Hi đồng xét xử xét thấy trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, đã tác động bồi thường một phần cho bị hại. Tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và xin cho bị cáo được hưởng án treo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b,h,i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, do đó Hội đồng xét xử xét thấy cần xem xét áp dụng cho bị cáo để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách nhân đạo khoan hồng của pháp luật nhà nước ta.

[2.3] Trong vụ án này, chị Trần Thị Bích P là người mua chiếc nhẫn bằng vàng do bị cáo S nhờ nam thanh niên người đồng bào dân tộc Ê Đê bán. Tuy nhiên khi mua nhẫn thì chị P không biết đây là tài sản do bị cáo trộm cắp mà có nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không đề cập xử lý đối với chị P là phù hợp.

Đi với ông Nguyễn Văn T là người được bị cáo S trả tiền 1.000.000 đồng. Tuy nhiên khi nhận số tiền trên thì ông T không biết đây là tiền do bị cáo phạm tội mà có nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không đề cập xử lý đối với ông T là phù hợp.

Đi với nam thanh niên được bị cáo S nhờ mang nhẫn vàng do S trộm cắp đi bán. Do chưa xác định được lai lịch của người nam thanh niên này nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột tách ra khỏi vụ án để làm rõ, xử lý sau.

[2.4] Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, 585, 589 Bộ luật dân sự Quá trình điều tra: Tại bản kết luận định giá số 179/KL-HDĐGTS ngày 16/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản xác định 01 chiếc nhẫn vàng có đính 01 viên đá màu đỏ đã qua sử dụng có giá 9.687.500 đồng. Bị hại ông Đỗ Văn S1 yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 11.000.000 đồng. Bị cáo Nguyễn Vũ Trường S đã bồi thường cho bị hại ông Đỗ Văn S1 số tiền 1.000.000 đồng. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường số tiền 10.000.000 đồng còn lại theo yêu cầu của bị hại. Tuy nhiên do hoàn cảnh khó khăn nên bị cáo chưa có điều kiện bồi thường cho bị hại. Do đó cần ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của đương sự, buộc bị cáo S có nghĩa vụ tiếp tục bồi thường cho ông S1 số tiền 10.000.000 đồng là phù hợp.

[2.5] Về án phí: bị cáo Nguyễn Vũ Trường S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Đi với án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ điểm f khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Trước khi mở phiên tòa, đương sự, bị cáo đã thỏa thuận với nhau về việc bồi thường thiệt hại, được ghi nhận tại biên bản thỏa thuận ngày 31 tháng 12 năm 2020. Tại phiên tòa đương sự, bị cáo giữ nguyên thỏa thuận và đề nghị Tòa án ghi nhận việc bồi thường thiệt hại. Do đó bị cáo không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Vũ Trường S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Vũ Trường S 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

*Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, 585, 589 Bộ luật dân sự Ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo Nguyễn Vũ Trường S và ông Đỗ Văn S1. Buộc bị cáo Nguyễn Vũ Trường S có nghĩa vụ bồi thường cho ông Đỗ Văn S1 số tiền 10.000.000 đồng. (Mười triệu đồng)

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự.

*Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Vũ Trường S phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm ngày) ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 40/2022/HS-ST

Số hiệu:40/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;