Bản án về tội trộm cắp tài sản số 38/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 38/2020/HS-ST NGÀY 17/07/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Toa an nhân dân huyên Y , tỉnh Sơn La xét xử vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 40/2020/TLST- HS ngày 23 tháng 6 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2020/QĐXXST-HS ngày 03/7/2020 đối với bị cáo:

Mè Văn T; tên gọi khác: Không; sinh năm 1971; nơi sinh tại huyệnY, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản K, xã V, huyện Y, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: Lớp 03/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông: Mè Văn M (đã chết) và bà Lừ Thị P vợ: Lò Thị Hoa; con: Có một con sinh năm 1990; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

- Bị hại: Anh Mè Văn C; sinh năm 1988; trú tại: Bản K, xã V, huyện Y , tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 23/5/2019 bị cáo Mè Văn T đi làm nương qua lán nương của gia đình Mè Văn C trú cùng bản K, xã V, huyện Y, tỉnh Sơn La nhìn thấy trên mái lán có đặt tấm pin năng lượng mặt trời và thiết bị thu phát điện đặt trong lán. Do pin năng lượng mặt trời của nhà bị cáo đang bị hỏng nên nảy sinh ý định lấy trộm bộ máy phát điện nêu trên của đình Mè Văn C mang về sử dụng. Quan sát thấy trong lán và xung quanh lán không có ai, bị cáo trèo lên đứng ở mép sàn hiên phía sau của lán, dùng tay trái nhấc tấm pin năng lượng mặt trời đặt trên mái xuống, rồi dùng tay phải kéo đoạn dây điện cắm với máy thu phát điện bên trong lán tuột ra rồi trèo xuống mặt đất gập tấm pin năng lượng mặt trời lại và dùng sợi dây điện quấn quanh. Tiếp đó, bị cáo đi ra vị trí đặt máy thu phát điện phía bên trong lán, do vách lán bằng nan tre, có nhiều khe hở nên T dùng tay vạch vách lán ra rồi thò tay phải vào trong kéo máy thu phát điện ra ngoài. Sau đó, T cầm số tài sản trộm cắp được đem đến lán nương của T cách đó 200m để cất giấu.

Đến ngày hôm sau, do sợ bị phát hiện nên bị cáo lấy dao tháo bản lề tách rời hai tấm pin năng lượng mặt trời rồi đem một tấm và máy thu phát điện ném xuống suối V thuộc địa phận bản K, xã V, huyện Y, tỉnh Sơn La (cơ quan điều tra đã truy tìm không thấy). Một tấm pin mặt trời còn lại có kích thước 54cm x 34cm, bị cáo dùng tấm nilon màu trắng bọc cùng với một tấm pin năng lượng mặt trời có kích thước 36cm x 24cm của gia đình (đã hỏng) rồi đem chôn dưới nền đất dưới gầm sàn lán nương của bị cáo. Đến ngày 28/3/2020 Mè Văn C đi làm qua lán nương của bị cáo Mè Văn T, thì nhìn thấy dưới nền đất dưới gầm sàn lán nương của bị cáo có tấm pin năng lượng mặt trời có đặc điểm giống với tài sản gia đình Mè Văn C bị mất trộm nên Mè Văn C đến trình báo Công an xã V để xác minh, làm rõ. Mè Văn T khai nhận đã chiếm đoạt tài sản của Mè Văn C.

Vật chứng vụ án gồm: 01 tấm pin năng lượng mặt trời có kích thước: 54cm x 34cm, nhãn hiệu SOLAR có đấu dây điện dài 4,83m; 01 Tấm pin năng lượng mặt trời kích thước 36cm x 24cm, hiệu JC-195035, có đấu dây điện dài 5,1m; 02 tấm nilon màu trắng có kích thước lần lượt là 36 cm x 108cm và 60 cm x 108cm;

01 con dao có chiều dài 31cm, phần lưỡi dao bằng kim loại dài 19cm, phần rộng nhất của lưỡi dao dài 3,5cm, phần cán bằng gỗ dài 12cm.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 10 ngày 30/3/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La kết luận: 02 tấm pin năng lượng mặt trời nhãn hiệu SOLAR, thông số kỹ thuật 22W/01 tấm, đã sử dụng tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là 1.320.000 đồng; 01 máy thu phát điện nhãn hiệu SOLAR, thông số kỹ thuật 12V-5A, đã sử dụng chiếm đoạt tháng 5/2019 có trị giá là 2.800.000đồng. Tính khấu hao giá trị sử dụng từ tháng 02/2019 đến tháng 5/2019 là 10%. Tổng giá trị của sản phẩm tấm pin năng lượng mặt trời và máy thu phát điện nhãn hiệu SOLAR có giá trị 3.708.000đồng.

Ngày 31/3/2020 bị cáo Mè Văn T đã tự nguyện thỏa thuận và bồi thường 4.500.000 đồng cho bị hại Mè Văn C.

Tại bản cáo trạng số: 34/CT-VKSYC ngày 30 tháng 6 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh Sơn La truy tố bị cáo Mè Văn T về tội “Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa công khai bị cáo Mè Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi đi chiếm đoạt tài sản của Mè Văn C đem về sử dụng. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với nội dung cáo trạng, phù hợp với các tài liệu chứng cứ, trong hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa không phát sinh tình tiết mới.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều173; điểm b, i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Mè Văn T từ 12 tháng đến 15 tháng cải tạo không giam giữ. Không áp dụng hình phạt bổ sung, miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án. Đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 2015; Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu tiêu hủy số vật chứng gồm: 02 tấm nilon màu trắng có kích thước lần lượt là 36 cm x 108cm và 60 cm x108cm; 01 con dao có chiều dài 31cm, phần lưỡi dao bằng kim loại dài 19cm, phần rộng nhất của lưỡi dao dài 3,5cm, phần cán bằng gỗ dài 12cm; 01 Tấm pin năng lượng mặt trời kích thước 36cm x 24cm, hiệu JC-195035, có đấu dây điện dài 5,1m; Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 tấm pin năng lượng mặt trời có kích thước: 54cm x 34cm, nhãn hiệu SOLAR có đấu dây điện dài 4,83m.

Án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhất trí như lời luận tội của Viện kiểm sát không có ý kiến gì thêm. Bị hại anh Mè Văn C trình bày, anh đã được bị cáo bồi thường đầy đủ không yêu cầu gì thêm. Đối với tấm pin bị cáo chiếm đoạt, đề nghị nộp ngân sách nhà nước. Về hình phạt đề nghị cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất, cải tạo giáo dục tại địa phương.

Lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, đây là lần đầu phạm tội, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất, được cải tạo tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Y, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, có đủ cơ sở khẳng định: Ngày 23/5/2019 bị cáo Mè Văn T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 02 tấm pin năng lượng mặt trời nhãn hiệu SOLAR, thông số kỹ thuật 22W/01 tấm, 01 máy thu phát điện nhãn hiệu SOLAR, thông số kỹ thuật 12V-5A. Số tài sản này của gia đình Mè Văn C người cùng bản, đang sử dụng thắp sáng ở lán nương. Sau khi chiếm đoạt được bị cáo mang về tách rời hai tấm pin năng lượng mặt trời rồi đem một tấm và máy thu phát điện ném xuống suối Vạt thuộc địa phận bản K, xã V, huyện Y, tỉnh Sơn La (cơ quan điều tra đã truy tìm không thấy). Một tấm pin mặt trời còn lại có kích thước 54cm x 34cm, bị cáo dùng tấm nilon màu trắng bọc cùng với một tấm pin năng lượng mặt trời có kích thước 36cm x 24cm của gia đình (đã hỏng) rồi đem chôn dưới nền đất dưới gầm sàn lán nương của bị cáo. Đến ngày 28/3/2020 bị hại Mè Văn C đi làm qua lán của bị cáo thì phát hiện. Tại bản kết luận định giá tài sản số 10 ngày 30/3/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện Y, tỉnh Sơn La kết luận: Tổng giá trị của sản phẩm tấm pin năng lượng mặt trời và máy thu phát điện nhãn hiệu SOLAR có giá trị 3.708.000đồng. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo. Do máy thu phát điện của gia đình bị cáo hỏng, nên bị cáo chiếm đoạt về mục đích để sử dụng cho gia đình. Bản thân bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hậu quả của hành vi, song cố ý phạm tội. Trên cơ sở đó đủ điều kiện căn cứ kết luận hành vi trên của bị cáo Mè Văn T đã phạm vào tội Trộm cắp tài sản. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát là có căn cứ. Việc xét xử bị cáo là đúng người đúng tội, không oan sai.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo:

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Song tài sản bị cáo chiếm đoạt giá trị không lớn thuộc trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo có mức hình phạt quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015: “phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi vụ án bị phát hiện bị cáo đã tích cực bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải. Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Bản thân bị cáo là người dân tộc thiểu số, nhận thức và am hiểu pháp luật có phần hạn chế. Bị cáo có mẹ là Lừ Thị P được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì. Bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Từ nhận định trên, xét thấy bị cáo Mè Văn T chiếm đoạt tài sản giá trị không lớn thuộc trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng. Bị cáo đã thực sự ăn năn hối cải, đã trực tiếp xin lỗi và bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại. Xét chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội, mà cần áp dụng Điều 36 Bộ luật hình sự giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát, giáo dục cũng đủ điều kiện giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện có ích cho xã hội.

[4] Vê hinh phat bô sung : Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Ngoài ra bị cáo bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hàng tháng còn phải chịu khấu trừ thu nhập từ 5% đến 20% thu nhập. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo Mè Văn T sinh sống bằng nghề trồng trọt, không có tài sản có giá trị lớn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án: Đối với số vật chứng gồm: 02 tấm nilon màu trắng và một con dao bị cáo dùng làm phương tiện cất giấu vật chứng và 01 Tấm pin năng lượng mặt trời kích thước 36cm x 24cm, hiệu JC-195035, có đấu dây điện dài 5,1m (đã hỏng) của bị cáo, bị cáo đề nghị tiêu hủy. Xét số vật chứng này không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối 01 tấm pin năng lượng mặt trời có kích thước: 54cm x 34cm, nhãn hiệu SOLAR có đấu dây điện dài 4,83m của bị hại Mè Văn C. Tại phiên tòa bị hại trình bày đã được bồi thường đầy đủ, nên đề nghị nộp ngân sách Nhà nước. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để xử lý.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Mè Văn T đã tự nguyện bồi thường cho bị hại Mè Văn C số tiền 4.500.000 đồng, bị hại Mè Văn C đã nhận đủ, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Xét thỏa thuận bồi thường trên là hoàn toàn tự nguyện cần được ghi nhận.

[7] Về án phí: Bị cáo Mè Văn T không thuộc trường hợp được miễn, giảm án phí do vậy phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự năm 2015. Tuyên bố bị cáo Mè Văn T phạm Tội: “Trộm cắp tài sản”.

1. Xử phạt bị cáo Mè Văn T 12 tháng (mười hai tháng) Cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản”. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã V, huyện Y, tỉnh Sơn La giám sát, giáo dục. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã V, huyện Y, tỉnh Sơn La nhận được bản sao bản án và Quyết định thi hành án đối với bị cáo Mè Văn T về tội “Trộm cắp tài sản”.

Không áp dụng hình phạt bổ sung, miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 47; khoản 1 khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 tấm pin năng lượng mặt trời có kích thước: 54cm x 34cm, nhãn hiệu SOLAR có đấu dây điện dài 4,83m;

Tịch thu tiêu hủy số vật chứng gồm:

- 02 tấm nilon màu trắng có kích thước lần lượt là 36 cm x 108cm và 60 cm x108cm.

- 01 con dao có chiều dài 31cm, phần lưỡi dao bằng kim loại dài 19cm, phần rộng nhất của lưỡi dao dài 3,5cm, phần cán bằng gỗ dài 12cm.

- 01 Tấm pin năng lượng mặt trời kích thước 36cm x 24cm, hiệu JC- 195035, có đấu dây điện dài 5,1m.

(Chi tiết vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an và Chi cục thi hành án huyện Y, tỉnh Sơn La).

3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ các Điều 584, 585, 586 và 589 Bộ luật dân sự; Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015, ghi nhận bị cáo Mè Văn T đã tự nguyện bồi thường cho bị hại Mè Văn C số tiền 4.500.000 đồng. Bị hại Mè Văn C đã nhận đủ, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Mè Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Báo cho bị cáo, bị hại biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án về tội trộm cắp tài sản số 38/2020/HS-ST

Số hiệu:38/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;