Bản án về tội trộm cắp tài sản số 37/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 37/2023/HS-ST NGÀY 28/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 33/2023/TLST- HS ngày 28 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2023/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Quách R (tên gọi khác: không); Sinh ngày 07 tháng 8 năm 1997, tại tỉnh Đắk Lắk. Nơi cư trú: Thôn C, xã E, thành phố B , tỉnh Đắk Lắk. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Mường. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: 6/12. Giới tính: Nam. Con ông Quách H, sinh năm 1967 và bà Đặng Thị Th, sinh năm 1971. Bị cáo có vợ tên là Gì Thị Thùy Tr, sinh năm 2005 (đã ly hôn) và chưa có con.

Tiền án: Không Tiền sự: Có 01 tiền sự, ngày 13/3/2023 bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 tháng, bị cáo chưa thi hành.

Nhân thân:

- Ngày 25/11/2015 bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk tuyên phạt 01 năm 06 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản” và 04 tháng tù về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, tổng hợp hình phạt chung của 02 tội là 01 năm 10 tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 368/2015/HSST. Đến ngày 06/02/2017, bị cáo chấp hành xong án phạt tù và đã được xóa án tích.

- Ngày 30/6/2023, bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk tuyên phạt 03 năm tù, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 182/2023/HSST và hiện nay Bản án đã có hiệu lực pháp luật.

Hiện nay bị cáo đang chấp hành án phạt tù tại trại giam A thuộc huyện Ph, tỉnh Bình Dương về tội“Mua bán trái phép chất ma túy” (Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

Những người bị hại:

- Ông Lâm Quang B, sinh năm 1972; Địa chỉ: Thôn 3, xã E , huyện K, tỉnh Đắk Lắk (Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

- Ông Y B Adrơng, sinh năm 1955; Địa chỉ: Buôn T, xã E, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk (Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 11/4/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, tỉnh Đắk Lắk ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 121 và Quyết định khởi tố bị can số 215 đối với bị cáo Quách R về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo Quách R khai nhận đã thực hiện 02 vụ trộm cắp xe mô tô tại huyện K nên ngày 25/4/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, tỉnh Đắk Lắk đã chuyển nội dung sự việc bị cáo trộm cắp 02 xe mô tô cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Kuin để giải quyết theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Kuin đã xác định được bị cáo Quách R đã thực hiện 02 vụ trộm cắp cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 09 giờ, ngày 09/01/2023, Quách R đón xe của người đi đường (không rõ nhân thân, lý lịch) đến nhà bạn là Y Th Knul (sinh năm 1998, trú tại buôn R, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk) để chơi nhưng không có Y Th ở nhà. Sau đó, Quách R một mình đi bộ để tìm xe mô tô trộm cắp và khi đi đến rẫy cà phê trồng xen tiêu của gia đình ông Lâm Quang B thuộc Thôn 6, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk thì nhìn thấy xe mô tô biển số 47R1 - X của ông B đang dựng trong rẫy và không thấy người trông coi (xe do ông B điều khiển đi làm rẫy) nên R đã đi đến rồi dắt xe ra đường cách khoảng 50 m. Tại đây, R dùng tuốc nơ vít mang theo tháo mặt nạ phía trước và yếm chắn gió 02 bên xe để đấu dây điện nguồn khởi động xe rồi điều khiển xe chạy về nghĩa địa buôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk tháo biển số xe cất giấu cùng yếm chắn gió vào 01 gốc cây cà phê. Sau đó, R điều khiển xe mô tô trộm cắp được chạy về thành phố B làm phương tiện đi lại và mua biển số N1 - X của một người phụ nữ (không xác định được nhân thân, lý lịch) đi bán nhôm nhựa tại thành phố B rồi gắn vào xe để sử dụng. Ngày 17/02/2023, R điều khiển xe đi thì vi phạm hành chính trong lĩnh vực tham gia giao giao thông đường bộ nên bị Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Đắk Lắk tạm giữ xe mô tô trên.

Vụ thứ hai: Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 31/3/2023, Quách R đón xe của người đi đường (không xác định được nhân thân, lý lịch) đi đến buôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk để tìm xe mô tô trộm cắp. Khi R đi bộ ngang qua rẫy của gia đình ông Y B Adrơng tại buôn T, xã E, huyện K thì nhìn thấy xe mô tô biển số B1 – X của ông Y B Adrơng đang để trước nhà rẫy (xe do ông Y B Adrơng điều khiển đi làm rẫy) không thấy có người trông coi. Vì vậy, R đi đến thấy xe không khóa cổ và không có chìa khóa nên đã dắt đi qua lô cà phê trồng xen tiêu cách khoảng 50 m rồi dùng cờ lê và tuốc nơ vít mang theo mở yếm xe để đấu dây điện nguồn khởi động xe. Sau đó, điều khiển xe chạy về hướng nghĩa địa buôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk tháo biển số xe ra và lấy biển số xe mô tô R1-X (cất giấu ngày 09/01/2023) gắn vào xe mô tô trộm cắp được rồi điều khiển về thành phố B để sử dụng đi lại. Đến ngày 03/4/2023, khi R đang đi bán ma túy thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B bắt quả tang và tạm giữ xe mô tô theo quy định.

* Tại Kết luận định giá tài sản số 19/KL-HĐĐGTS ngày 04 tháng 5 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện K kết luận: xe mô tô biển kiểm soát R1-X (hiện đang gắn biển kiểm soát số N1-X) vào thời điểm ngày 09/01/2023 có trị giá là 10.500.000 đồng. Xe mô tô biển kiểm soát B1- X (hiện đang gắn biển kiểm soát số R1-X) vào thời điểm ngày 31/3/2023 có trị giá là 11.000.000 đồng.

* Tại Kết luận giám định số 755/KL-KTHS ngày 21 tháng 6 năm 2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Biển số xe N1 - X ký hiệu A1 là biển số giả. Biển số xe R1-X ký hiệu A2 là biển số thật.

* Về vật chứng vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Kuin đã tạm giữ, gồm: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Future; 01 biển kiểm soát N1- X; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại SiRus; 01 biển kiểm soát N1-X; 01 biển kiểm soát N1-X. Đối với tuốc nơ vít, cờ lê mà Quách R sử dụng để trộm xe; yếm chắn gió của 02 xe mô tô và biển kiểm soát B1-X thì Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Kuin đã truy tìm, nhưng không thu giữ được.

* Về phần trách nhiệm dân sự: Người bị hại là ông Lâm Quang B và ông Y B Adrơng đã nhận lại xe và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm .

Cáo trạng số: 29/CT-VKS-HS ngày 25/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk truy tố bị cáo Quách R về tội: “Trộm cắp tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự;

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Kuin tham gia phiên tòa giữ nguyên tội danh như bản cáo trạng đã truy tố bị cáo. Đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi của bị cáo gây ra, phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Quách R phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

- Áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự, tổng hợp với hình phạt 03 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 182/2023/HSST, ngàu 30/6/2023 của Tòa án nhân dân thành phố B, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/4/2023.

* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên không giải quyết.

* Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử công nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Kuin giao trả 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Future và 01 biển kiểm soát N1-X cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Lâm Quang B và giao trả 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại SiRus chủ sở hữu hợp pháp là ông Y B Adrơng. Tịch thu để tiêu hủy đối với 01 biển số xe mô tô giả biển kiểm soát N1-X.

Tại đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt ngày 22/9/2023, bị cáo đồng ý với toàn bộ lời khai của mình đã trình bày tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Kuin và không có bổ sung gì thêm. Đồng thời, bị cáo đề nghị Tòa án xem xét giải nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Kuin, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Kuin, Kiểm sát viên trong qúa trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và trong thời gian Tòa án chuẩn bị xét xử bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Quách R tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Kuin phù hợp với lời khai của những người bị hại về thời gian, địa điểm và loại tài sản mà bị cáo đã trộm cắp được, phù hợp với các chứng cứ khác đã được thu thập và phản ánh trong hồ sơ vụ án. Qua đó có đủ cơ sở để kết luận: Vào ngày 09/01/2023 lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của người bị hại trong việc bảo quản tài sản, bị cáo Quách R đã có hành vi lén lút lấy trộm chiếc xe mô tô biển kiểm soát R1-X của ông Lâm Quang B có giá trị 10.500.000 đồng. Tiếp đến vào ngày 31/3/2023, tại buôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, bị cáo tiếp tục có hành vi lấy trộm chiếc xe mô tô biển kiểm soát B1-X của ông Y B Adrơng có giá trị 11.000.000 đồng, (tổng giá trị mà bị cáo chiếm đoạt là 21.500.000 đồng). Vì vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận các bị cáo Quách R phạm tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sư.

Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác là một trong những quyền cơ bản được pháp luật hình sự Nhà nước ta bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có đủ khả năng để nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị xử phạt nhưng vẫn cố ý thực hiện. Ngoài ra, bị cáo là người có nhân thân xấu và có một tiền sự nên cần phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội và cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân lương thiện, đồng thời cũng để phòng ngừa tội phạm đối những người khác.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo thực hiện hai vụ trộm cắp tài sản mà mỗi vụ đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và truy tố bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo là người dân tộc thiểu số (dân tộc Mường) nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản bị mất và không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xem xét giải quyết.

[7] Về vật chứng vụ án:

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Future và 01 biển kiểm soát N1-X, quá trình điều tra xác định được là tài sản hợp pháp của ông Lâm Quang B nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Kuin đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho ông Lâm Quang B là phù hợp, cần công nhận.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại SiRus, quá trình điều tra xác định được là tài sản hợp pháp của ông Y B Adrơng nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Kuin đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho ông Y B Adrơng là phù hợp, cần công nhận.

- Đối với 01 biển kiểm soát N1-X là biển số giả nên cần tịch thu tiêu hủy.

[8]. Đối với người phụ nữ bán biển số N1-X giả cho Quách R tại thành phố Buôn Ma Thuột, thì quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lý lịch nên không có cơ sở để xử lý. Đối với việc bị cáo mua biển số N1-X giả nêu trên về để sử dụng, thì khi mua R không biết đó là biển số giả, nhưng R đã sử dụng biển số giả nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Kuin đã chuyển cho Đội Cảnh sát giao thông Công an huyện K ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Quách R là phù hợp.

[9] Về án phí: Bị cáo Quách R phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Quách R phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Quách R 02 (hai) năm tù.

- Áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự, tổng hợp với hình phạt 03 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 182/2023/HSST, ngàu 30/6/2023 của Tòa án nhân dân thành phố B, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/4/2023.

3. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Công nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Kuin giao trả 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Future và 01 biển kiểm soát N1-X cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Lâm Quang B và giao trả 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại SiRus cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Y B Adrơng.

- Tịch thu để tiêu hủy đối với 01 biển kiểm soát xem mô tô số N1-X (đặc điểm của vật chứng theo như biên bảm giao nhận vật chứng ngày 05/9/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Quách R phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và những người bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 37/2023/HS-ST

Số hiệu:37/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư Kuin - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;