Bản án về tội trộm cắp tài sản số 37/2022/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN MÔ, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 37/2022/HSST NGÀY 15/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 9 năm 2022 tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình – Điểm cầu thành phần Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai, trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số:

35/2022/TLST - HS ngày 31 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2022/QĐXXST – HS ngày 05 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo: Bàn Phúc Đ, sinh ngày 21/7/1999, tại B K; nơi cư trú:Thôn N C, xã M Th, huyện B Th, tỉnh K nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Dao; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bàn Kim Th, con bà Triệu Thị K; vợ, con chưa có; tiền án: có 01 tiền án: Tại bản án số 474/2021/HSST ngày 23/9/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt Bàn Phúc Đ 12 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản” Ngày 13/5/2022 bị cáo chấp hành xong bản án; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 19/7/2022. Hiện đang tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Bàn Phúc Đ: Ông Vũ Ngọc Hùng, trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Ninh Bình ( có mặt) Bị hại:

- Ông Mai Ngọc H, sinh năm 1967, địa chỉ xóm 2, T S, xã Y M, huyện Y M, tỉnh N B – là người đại diện cho chùa Phượng Trình (vắng mặt) - Ông Tạ Văn N, sinh năm 1979, địa chỉ xóm 1, xã Y Ph, huyện M, tỉnh Ninh Bình – là người đại diện cho chùa Thọ Bình (vắng mặt) - Ông Lê Xuân D, sinh năm 1975, địa chỉ xóm Tr H, xã Y Ph, huyện Yên M, tỉnh N B – là đại người diện cho nhà thờ Lê Tộc Đại (vắng mặt) - Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1958, địa chỉ xóm Th, xã Y Ph, huyện Y M, tỉnh N B – là người đại diện cho đền Hương Thị (vắng mặt).

+ Người làm chứng:

Chị Bàn Thị Th, chi Phạm Thị D (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:Bàn Phúc Đ là người đã có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 13/5/2022 sau khi chấp hành xong hình phạt tù tại trại giam Ngọc Lý, Đ không trở về địa phương mà đi lang thang ở khắp nơi và đi đến địa bàn huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình lợi dụng sơ hở trong việc quản lý đền, chùa và nhà thờ họ, Đ đã tìm cách chiếm đoạt tài sản để ăn tiêu.

Trong thời điểm từ ngày 11/7/2022 đến ngày 13/7/2022, Bàn Phúc Đ đã 02 lần lén lút, bí mật thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Khong 19 giờ ngày 10/7/2022, Bàn Phúc Đ đi bộ lang thang trên Quốc lộ 12B thuộc địa phận xã Yên Mạc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình thì phát hiện thấy có biển chỉ dẫn vào chùa “Phượng Trình” nên Đ đã nảy sinh ý định vào chùa trên để tìm cách chiếm đoạt tài sản. Khi đi đến sân chùa Phượng Trình ở xóm 1, Đông Sơn, xã Yên Mạc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình do ông Mai Ngọc H sinh năm 1967 ở xóm 2 Tây Sơn, xã Yên Mạc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình quản lý, quan sát thấy không có người trông coi và các cửa đều khóa. Bàn Phúc Đ lấy 01 chiếc cuốc cũ (KT dài 162cm, phần cán cuốc bằng tre dài 162cm, đường kính 4,5cm, lưỡi cuốc bằng kim loại kích thước 20x15cm) tại sân chùa đập vỡ ô thoáng làm bằng bê tông phía trước gian thờ Mẫu tạo thành lỗ hổng kích thước 49x60cm đồng thời lấy 01 chiếc ghế gỗ KT (40x45x90) cm tại sân chùa đem đến chỗ ô thoáng bị đập vỡ đứng lên ghế và chui qua lỗ hổng vào bên trong. Sau khi đột nhập vào bên trong thì Đ đã thắp nến bên trong gian thờ Mẫu, lục tìm tài sản nhưng không có gì thì đi sang gian thờ Đức Thánh thấy ở trước gian thờ Tam Bảo có kê 01 phản gỗ. Do lúc này mệt nên Đại đã lên phản nằm ngủ. Khoảng 00 giờ ngày 11/7/2022, Bàn Phúc Đ tỉnh dậy, thắp đèn dầu có sẵn ở đó tìm thấy 01 hòm công đức bằng khung nhôm kính KT (0,35x0,3x0,48)m bên trong có nhiều tờ tiền mệnh giá khác nhau tại vị trí gian thờ Đức Thánh, trước ban thờ Đức Ông. Bàn Phúc Đ dùng tay phải phá cửa, lấy 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng còn lại số tiền lẻ thì Đ không lấy. Sau đó Đ tiếp tục đi đến vị trí trước ban thờ Đức Thánh thấy có 01 hòm công đức bằng gỗ KT(1,2x0,5x0,75)cm đang khóa nên Đ đã lấy 01 then cửa bằng kim loại dài khoảng 20cm tại cửa ra vào phía trước ban thờ Đức Thánh làm công cụ để cậy mở được khóa hòm công đức lấy 01 tờ tiền có mệnh giá 200.000 đồng bỏ vào túi quần bên phải phía trước. Đ tiếp tục đi sang ban thờ Đức Ông sử dụng then cửa bằng kim loại phá khóa 01 hòm công đức bằng gỗ (có đặc điểm giống hòm công đức ban thờ Đức Thánh), thấy bên trong có nhiều loại tiền mệnh giá khác nhau. Bàn Phúc Đ lấy 01 tờ tiền có mệnh giá 200.000 đồng bỏ vào túi quần bên phải phía trước. Tổng số tiền mà Đ đã lấy trong 03 hòm công đức là 500.000 đồng, đối với số tiền lẻ do có mệnh giá thấp là 1.000 đồng, 2.000 đồng nên Đ không lấy mà để ở trong các hòm công đức và tiếp tục lục tìm tài sản nhưng không thấy tài sản có giá trị nên vứt lại then cửa tại gian thờ Đức Thánh rồi nhanh chóng tẩu thoát. Sau khi chiếm đoạt được số tiền trên Bàn Phúc đ đã ăn tiêu hết.

Lần thứ hai: Tối ngày 12/7/2022, Bàn Phúc Đ đi bộ trên Quốc lộ 12B hướng từ xã Yên Mạc đi xã Yên Phong, huyện Yên Mô với mục đích tìm các đền, chùa sơ hở để lấy tài sản. Khoảng 23 giờ 15 phút cùng ngày Đ đi đến nhà thờ họ Lê thuộc địa phận xóm Trung Hậu, xã Yên Phong, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình thì phát hiện thấy nhà thờ họ Lê, không có người trông coi. Bàn Phúc Đ đi đến trước cửa ra vào, dùng hai tay tháo khung gỗ ô thoáng đặt xuống hiên nhà thờ rồi trèo qua ô thoáng vào bên trong. Sau khi đột nhập vào qua ánh đèn của nhà thờ Đ quan sát thấy tại gian thờ Thần Tổ, Thủy Tổ có 01 hòm công đức bằng khung nhôm kính trong suốt KT (24x31x46)cm bên trong có nhiều loại tiền mệnh giá khác nhau. Bàn Phúc Đ liền lấy 01 con dao kim loại không có cán KT (dài 24cm, bản dao rộng 06cm, loại dao 01 lưỡi, mũi dao bằng) có sẵn ở đó để cậy nắp hòm công đức lấy được số tiền 300.000 đồng, gồm: 06 tờ tiền 50.000 đồng. Sau khi lấy được số tiền trên thì Đ để lại con dao cạnh hòm công đức rồi tháo chốt cửa gỗ ở bên trong để tẩu thoát ra ngoài rồi tiếp tục đi bộ về hướng cầu Rào, xã Yên Phong.

Khong 01 giờ 30 phút ngày 13/7/2022, Bàn Phúc Đ đi bộ đến chùa Thọ Bình ở xóm 1, xã Yên Phong, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Quan sát thấy bên trong chùa không có người trông coi, khóa cổng nên Đ trèo qua tường bao rồi đi đến vị trí phía sau hành lang 02 gian thờ có 01 ô thoáng bê tông. Bàn Phúc Đ lấy 01 thanh gỗ KT (61,5x8x3)cm có sẵn tại đó đập vỡ ô thoáng tạo nên lỗ thủng KT (37x37)cm, để chui vào trong chùa. Khi đột nhập vào bên trong Đ lấy 01 then cửa bằng kim loại KT (dài 32cm, đường kính 1,3cm, một đầu uống cong hình chữ “L”, phía đầu còn lại có 02 lỗ tròn, đường kính 01cm) tại cửa gỗ chính giữa gian thờ Mẫu rồi đi đến gian thờ Phật thì nhìn thấy 01 két sắt kích thước (0,82x0,5x0,4)m cửa bị hở để tại vị trí nền nhà phía trước ban thờ Đức Chúa có thể cậy phá được. Đ mở cửa hành lang đi xuống khu nhà bếp tìm, lấy 01 con dao bằng kim loại KT (dài 35cm, cán dao bằng gỗ mầu nâu dài 15cm, thân dao bằng kim loại màu đen dài 20cm, bản dao rộng 05cm, loại dao 01 lưỡi, mũi bằng có 01 lỗ thủng hình tròn đường kính 01cm) rồi gian thờ Phật lấy thêm 01 then cửa bằng kim loại màu đen, hình trụ tròn KT (dài 35cm, đường kính 1,3cm, một đầu uống cong hình chữ “L”, phía đầu còn lại có 02 lỗ tròn, đường kính 01cm) của cửa gỗ chính giữa gian thờ. Sau đó Bàn Phúc Đ đặt nằm két sắt xuống nền nhà, dùng dao và then cửa cạy khoảng 30 phút thì mở được cánh cửa két sắt bên trong có nhiều loại tiền lẻ mệnh giá khác nhau. Đ chọn các tờ tiền mệnh giá từ 10.000 đồng đến 200.000 đồng lấy được tổng số tiền 1.240.000 đồng rồi bỏ lại 02 then cửa và dao tại đó. Sau khi chiếm đoạt được tài sản Bàn Phúc Đ đã trèo tường ra ngoài rồi đi bộ về hướng xã Yên Mạc, huyện Yên Mô Khoảng 03 giờ ngày 13/7/2022, Bàn Phúc Đ đi đến trước cửa đền Hương Thị thuộc địa phận xóm Thị, xã Yên Phong, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình thì phát hiện thấy không có người trông coi, cửa cổng mở, trong sân có đèn. Đ liền đi xuống khu vực nhà kho lấy 01 then sắt, 01 chiếc bật lửa gas rồi đi lên gian thờ phía trên dùng then cửa cạy bung tay nắm cửa vào bên trong gian thờ Tiền Đường. Tại đây Đ dùng bật lửa thắp nến để lục tìm tài sản thì phát hiện thấy gian thờ giữa có 01 hòm công đức bằng kính trong suốt KT (40x25x25)cm, bên trong có tiền nên Đ đã lấy chìa khóa của 01 hòm công đức không có tiền ở gần đó để mở khóa chiếc hòm công đức trên. Sau khi mở được khóa thì Đ đã lấy số tiền 60.000 đồng (gồm 02 tờ tiền 20.000 đồng và 02 tờ tiền 10.000 đồng) để lại then cửa, bật lửa gas tại đó rồi tẩu thoát ra ngoài bằng lối cũ.

Sau khi bị mất tài sản, những người đại diện theo pháp luật và theo ủy quyền của chùa Phượng Trình do ông Mai Ngọc H trú tại xóm 2, Tây Sơn, xã Yên Mạc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; chùa Thọ Bình do ông Tạ Văn N trú tại xóm 1, xã Yên Phong, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; nhà thờ họ Lê do ông Lê Xuân Đ trú tại xóm Trung Hậu, xã Yên Phong, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình và đền Hương Thị do ông Nguyễn Văn D trú tại xóm Thị, xã Yên Phong, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình đã làm đơn trình báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Mô.

Hi 07 giờ 25 phút ngày 16/7/2022, Tổ công tác Công an huyện Yên Mô đang làm nhiệm vụ đã phát hiện Bàn Phúc Đ đang đứng ở ven đường Quốc lộ 12B thuộc địa phận xóm 1, Ngọc Lâm, xã Yên Lâm, huyện Yên Mô có biểu hiện nghi vấn. Tổ công tác tiến hành kiểm tra hành chính, Đ không xuất trình được giấy tờ tùy thân, tại túi quần bên trái phía trước có tổng số tiền 860.000 đồng gồm 03 tờ tiền 100.000 đồng, 10 tờ tiền 50.000 đồng, 01 tờ tiền 20.000 đồng và 04 tờ tiền 10.000 đồng. Bàn Phúc Đ khai nhận số tiền trên là tài sản trộm cắp tại các đền, chùa ở xã Yên Mạc và xã Yên Phong, huyện Yên Mô vào các ngày 12,13/7/2022 nhưng chưa tiêu sài hết. Công an huyện Yên Mô đã lập biên bản và thu giữ số tiền 860.000 đồng của Bàn Phúc Đ.

Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ các vật chứng sau: Thu giữ tại chùa Phượng Trình 01 chiếc cuốc cũ KT (dài 162cm, phần cán cuốc bằng tre dài 162cm, đường kính 4,5cm, lưỡi cuốc bằng kim loại kích thước (20x15)cm;

Thu tại nhà thờ họ Lê 01 con dao kim loại không có cán KT (dài 24cm, bản dao rộng 06cm, loại dao 01 lưỡi, mũi dao bằng); Thu giữ tại chùa Thọ Bình 01 thanh gỗ KT (61,5x8x3)cm; 01 then cửa bằng kim loại, hình trụ tròn, màu đen KT (dài 32cm, đường kính 1,3cm, một đầu uống cong hình chữ “L”, phía đầu còn lại có 02 lỗ tròn, đường kính 01cm); 01 con dao bằng kim loại KT (dài 35cm, cán dao bằng gỗ mầu nâu dài 15cm, thân dao bằng kim loại màu đen dài 20cm, bản dao rộng 05cm, loại dao 01 lưỡi, mũi bằng có 01 lỗ thủng hình tròn đường kính 01cm); 01 then cửa bằng kim loại màu đen, hình trụ tròn, màu đen, KT (dài 35cm, đường kính 1,3cm, một đầu uống còng hình chữ “L”, phía đầu còn lại có 02 lỗ tròn, đường kính 01cm).

Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn tiến hành thu giữ, kiểm tra và bàn giao lại cho chùa Phượng Trình 01 hòm công đức bằng khung nhôm kính KT (0,35x0,3x0,48)m; 02 hòm công đức bằng gỗ có cùng KT (1,2x0,5x0,75)cm; 01 chiếc ghế gỗ KT (40x45x90)cm. Nhà thờ họ Lê 01 hòm công đức bằng khung nhôm kính trong suốt KT (24x31x46)cm. Chùa Thọ Bình 01 két sắt KT (0,82x0,5x0,4)m và tổng số tiền 1.256.000 đồng. Đền Hương Thị 01 hòm công đức bằng kính trong suốt KT (40x25x25cm).

Tại bản cáo trạng số: 38/CT – VKS ngày 31 tháng 8 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô đã truy tố bị can Bàn Phúc Đ ra trước Tòa án nhân dân huyện Yên Mô để xét xử về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

Tuyên bố bị cáo: Bàn Phúc Đ phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ Luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Bàn Phúc Đ từ 15 đến 18 tháng tù, thời gian phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 19/7/2022.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ Luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 02 then suốt cửa kim loại; 02 chiếc dao bằng kim loại; 01 thanh gỗ; 01 chiếc cuốc là vật bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội, bị hại không có nhu cầu xin lại.

Đi với số tiền 860.000đồng là tài sản bị cáo trộm cắp của bị hại, quá trình điều tra bị cáo đã bồi thường cho bị hại những thiệt hại mà bị cáo gây ra. Do đó trả lại số tiền 860.000đồng cho bị cáo.

Áp dụng điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Về nhân thân bị cáo có tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án; song sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã cùng gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị hại; quá trình điều tra thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình nên đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Về án phí do bị cáo cư trú tại xã kinh tế đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật miễn án phí cho bị cáo căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết 326/2016/ UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án nên đề nghị miễn án phí cho bị cáo. Đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo nhất trí với lời bào chữa của luật sư bào chữa cho bị cáo không bổ sung gì thêm và cho rằng bị xét xử là đúng người, đúng tội. Lời nói sau cùng đề nghị được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Mô, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo, bị hại và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở để xác định: lần thứ nhất vào hồi 00 giờ ngày 11/7/2022, tại chùa Phượng Trình thuộc địa phận xóm 1, Đông Sơn, xã Yên Mạc, huyện Yên Mô lợi dụng sơ hở khi chùa không có người trông coi, Đ đã lén lút, bí mật chiếm đoạt số tiền 500.000 đồng; lần thứ hai trong khoảng thời gian từ 23 giờ 15 phút ngày 12/7/2022 đến 03 giờ ngày 13/7/2022, Bàn Phúc Đ đã lén lút, bí mật đột nhập vào nhà thờ họ Lê, chùa Thọ Bình và đền Hương Thị đều thuộc địa phận xã Yên Phong, huyện Yên Mô chiếm đoạt của nhà thờ họ Lê số tiền 300.000đ; chùa Thọ Bình số tiền 1.240.000đồng và đền Hương Thị số tiền 60.000đ. Tổng tài sản 02 lần chiếm đoạt của nhà thờ, đền và chùa nêu trên là 2.100.000đ. Bị cáo là người có 01 tiền án về tội “ Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án Hành vi lợi dụng sơ hở của chủ tài sản, Bàn Phúc Đ đã trộm cắp tài sản có trị giá 2.100.000 đồng. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi do cố ý; thực hiện hành vi phạm tội khi chưa được xóa án.

Đi chiếu với quy định của pháp luật, đã có đủ cơ sở để kết luận hành vi mà bị cáo thực hiện đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tội trộm cắp tài sản.

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm;

a)…….

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169,170,171,172,174,175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

Bản Cáo trạng số 38/CT– VKS ngày 31/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô đã truy tố bị cáo Bàn Phúc Đ với tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an tại địa phương, gây bất an trong quần chúng nhân dân. Vì vậy cần sớm đưa vụ án để điều tra xử lý hành vi trộm cắp tài sản mà bị cáo đã thực hiện, để giáo dục cải tạo bị cáo nói riêng và có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung trên địa bàn.

Bị cáo đã từng bị Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân, nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo phạm tội khi chưa được xóa án là tình tiết định khung được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS. Hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, để bị cáo có thời gian tự suy nghĩ về việc làm của mình, để tu dưỡng sửa chữa trở thành công dân tốt. Song khi lượng hình cũng cần xem xét đến các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ đối với bị cáo.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ; tăng nặng của bị cáo: Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo; số tiền chiếm đoạt bị cáo đã bồi thường cho các bị hại nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo 02 lần trộm cắp tài sản. Do vậy bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Quá trình điều tra, Bàn Phúc Đ đã bồi thường cho chùa Phượng Trình số tiền 500.000đ; nhà thờ họ Lê số tiền 300.000đ; chùa Thọ Bình số tiền 1.240.000 đồng đền Hương Thị số tiền 60.000 đồng. Tất cả người đại diện hợp pháp của chùa, nhà thờ cũng như đền thờ đã nhận đủ số tiền trên. Trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã làm hư hỏng của chùa Phượng Trình 01 ô cửa bằng bê tông, 03 hòm công đức; nhà thờ họ Lê hư hỏng 01 hòm công đức; chùa Thọ Bình hư hỏng 01 ô thoáng bằng bê tông, 01 két sắt; đền Hương Thị 01 tay nắm cửa. Đại diện của chùa, nhà Thờ, Đền đều không yêu cầu bồi thường những tài sản bị hỏng. Do đó, trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét giải quyết.

[6] Các biện pháp tư pháp: Vật chứng đã thu giữ gồm: 02 then suốt cửa kim loại; 02 chiếc dao bằng kim loại; 01 thanh gỗ; 01 chiếc cuốc là vật bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội, bị hại không có nhu cầu xin lại nên Tịch thu tiêu hủy.

Đi với số tiền 860.000đồng là tài sản bị cáo trộm cắp của bị hại, quá trình điều tra bị cáo đã bồi thường cho bị hại những thiệt hại mà bị cáo gây ra. Do đó trả lại số tiền 860.000đồng cho bị cáo. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Về án phí căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án. Do bị cáo cư trú tại xã có kinh tế đặc biệt khó khăn, theo quy định của pháp luật miễn án phí hình sự cho bị cáo Bàn Phúc Đ.

[8] bị cáo; bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điểm b khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 136; điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ Luật Tố tụng hình sự. Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án.

1.1. Tuyên bố: Bị cáo Bàn Phúc Đ phạm tội “ Trộm cắp tài sản”

1.2. Xử phạt: Bị cáo Bàn Phúc Đ 15 ( Mười lăm) tháng tù, thời gian phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 19/7/2022.

2. Các biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy 01 then suốt cửa bằng kim loại màu đen dạng trụ tròn, dài 32cm, đường kính 1,3cm then có đầu được uốn cong dạng hình chữ “L” phía đầu còn lại có 02 lỗ tròn đường kính 01cm bị cong vênh, then suốt cửa đã qua sử dụng; 01 chiếc dao bằng kim loại dài 35cm, cán bằng gỗ màu nâu đen dài 15cm thân dao bằng kim loại màu đen dài 20cm, bản dao rộng 05cm, loại dao một lưỡi, mũi dao bằng có 01 lỗ thủng hình tròn đường kính 01cm, thân dao bị biến dạng cong vênh, đã qua sử dụng; 01 then suốt cửa bằng kim loại màu đen dạng trụ tròn, dài 35cm, đường kính 1,3cm then có đầu được uốn cong dạng hình chữ “L” phía đầu còn lại có 02 lỗ tròn đường kính 01cm, then suốt cửa đã qua sử dụng; 01 thanh gỗ kích thước (61,5x8x3)cm, 1 đầu thanh gỗ bị gãy nham nhở, cũ đã qua sử dụng; 01 chiếc dao bẳng kim loại ( dao không có cán) màu xám dài 24cm, bản dao rộng 06cm, là loại dao một lưỡi, mũi dao bằng, dao đã qua sử dụng; 01 chiếc cuốc dài 162cm, gồm phần án cuốc bằng đoạn tre dài 162cm, đường kính 4,5cm, phần lưỡi cuốc bằng kim loại KT ( 20x15)cm cuốc cũ đã qua sử dụng.

+ Trả số tiền 860.000đ ( Tám trăm sáu mươi nghìn đồng) cho Bàn Phúc Đại.

( Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/8/2022 và ủy nhiệm chi lập ngày 6/9/2022 giữa công an huyện Yên Mô với Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Mô).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Miễn án phí hình sự cho bị cáo;

Án xử công khai sơ thẩm báo để bị cáo biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

92
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 37/2022/HSST

Số hiệu:37/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Mô - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;