TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 36/2022/HS-ST NGÀY 18/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 18 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 24/2022/HSST ngày 16 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 7 năm 2022, đối với bị cáo:
TRẦN QUỐC Đ - Sinh năm 1997 – Tại TP Đà Nẵng;
Nơi ĐKNKTT: Tổ 62, phường H, quận Liên C, TP Đ; chỗ ở: Số 41 đường L, phường K, quận N, TP Đ; nghề nghiệp: LĐPT; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Quốc H và bà Nguyễn Thị T. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo hiện đang tại ngoại – Có mặt tại phiên tòa.
* Người bị hại: Bà Trần T – Sinh năm 1995 Địa chỉ: 41 Lê Văn Tâm, P. K, Q.N,TP Đ – Vắng mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
01. Ông Võ Thanh D – Sinh năm 1991 Địa chỉ: 100 L, P. A, Q. S, TP Đ – Có mặt.
02. Ông Phạm Phú Hoàng Q – Sinh năm 1995. Địa chỉ: Tổ 56, P. H, Q. N, TP Đ – Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Quốc Đ sinh sống cùng gia đình gồm có cha là ông Trần Quốc Hướng, mẹ là bà Nguyễn Thị T, chị ruột là chị Trần T và anh rể là anh Phạm Phú Hoàng Q (chồng chị Thu) tại địa chỉ số 41 đường Lê Văn Tâm, tổ 41, P. K, Q. N, TP. Đ. Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 02/10/2021, khi gia đình của Đ đang sinh hoạt ở tầng dưới thì Đ ở tầng trên và phát hiện chiếc chìa khóa xe ô tô mang BKS: 43A-399.24 của chị T để ở trên bàn trong phòng ngủ. Đ nảy sinh ý định lấy xe ô tô đi cầm cố lấy tiền tiêu xài nên đã dùng đầu vặn vít có sẵn trong nhà mở ốp lấy chìa khóa xe, còn ốp để lại chổ cũ. Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 03/10/2021, sau khi cả gia đình Đ về quê thì Đ dùng chìa khóa đã lấy trước đó khởi động và điều khiển xe ôtô đến nhà anh Võ Thanh D. Tại đây, Đ viết giấy cho anh D thuê xe với số tiền đặt cọc là 50.000.000đ và theo yêu cầu của Đ, anh D chuyển khoản cho bạn của Đ là anh Huỳnh L (chưa xác định nhân thân lai lịch) nhận giúp theo số tài khoản 1018911535 mang tên “Ngo Van Phat”, ngân hàng Vietcombank. Tuy nhiên, anh D chỉ chuyển: 40.000.000đ vì Đ trước đó nợ anh D 10.000.000đ. Đ để xe ô tô cùng các giấy tờ xe cho anh D và về nhà. Khoảng 02 đến 03 ngày sau, Đ đến gặp anh Huỳnh L để lấy 40.000.000đ.
Khoảng 18h00 cùng ngày, chị Trần T về nhà phát hiện xe bị Đ lấy trộm nên đã đến Công an phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng trình báo sự việc.
Tang vật thu giữ của:
+ Trần Quốc Đ:
- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 plus gold 16Gb đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng bên trong.
- 01 đầu vặn vít dài khoảng 03cm bằng kim loại.
- 40.000.000đ.
+ Anh Võ Thanh D:
- 01 xe ô tô BKS: 43A-399.24 nhãn hiệu Mitshubishi, số loại Attrage màu sơn trắng, xe đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng bên trong.
- 01 giấy cho thuê xe giữa Trần Quốc Đ và anh Võ Thanh D.
- 01 chìa khóa của xe ô tô BKS 43A-399.24.
- 01 giấy chứng nhận kiểm định.
- 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc.
- 01 giấy chứng nhận điện tử bảo hiểm tự nguyện.
- 04 giấy biên nhận thế chấp ngân hàng.
+ Chị Trần T: 01 ốp chìa khóa xe ô tô BKS 43A-399.24, đã qua sử dụng.
Theo Kết luận định giá tài sản số 74/BB-HĐĐGTS ngày 29/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Q. Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng kết luận như sau:
Xe ôtô nhãn hiệu Mitsubishi, số loại: Attrage, màu sơn: trắng, BKS: 43A-399.24, số khung A13AAJH003636, số máy: 3A92UHH5355 trị giá 380.400.000đ.
Với nội dung trên, tại bản cáo trạng số: 25/CT-VKS-NHS ngày 15/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng thì bị cáo Trần Quốc Đ bị truy tố về tội: "Trộm cắp tài sản" theo khoản 3 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn TP. Đà Nẵng thực hành quyền công tố nhà nước vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố Trần Quốc Đ về tội danh như đã nói trên và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng: Điểm a, khoản 3 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Điều 65 BLHS, xử phạt Trần Quốc Đ từ 30 đến 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
* Về vật chứng:
- Đối với giấy cho thuê xe (bản viết tay) là chứng cứ trong hồ sơ vụ án, đề nghị lưu trữ hồ sơ vụ án.
- Đối với 01 điện thoại Iphone 6 Plus gold 16Gb (đã qua sử dụng) là tài sản của Trần Quốc Đ, là phương tiện của Đ sử dụng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội đề nghị tịch thu sung công quỹ nhà nước.
- Đối với 01 đầu vặn vít dài khoảng 03 cm, bằng kim loại là tang vật vụ án, đề nghị tịch thu tiêu hủy.
- Đối với số tiền 40.000.000đ do Trần Quốc Đ giao nộp, đề nghị hoàn trả lại cho anh D.
- Đối với các vật chứng gồm: Xe ôtô nhãn hiệu Mitsubishi, số loại: Attrage, màu sơn: trắng, BKS: 43A-399.24, 01 chìa khóa xe, 01 ốp chìa khóa, 01 giấy chứng nhận kiểm định, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc, 01 giấy chứng nhận điện tử bảo hiểm tự nguyện, 04 giấy biên nhận thế chấp ngân hàng là giấy tờ tài sản của chị Trần T. Ngày 04/11/2021, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng đã trả lại cho chị Trần T là đúng quy định pháp luật.
* Về phần dân sự:
- Chị Trần T và anh Phạm Phú Hoàng Q không có yêu cầu gì về phần dân sự.
- Anh Võ Thanh D đề nghị nhận lại số tiền 40.000.000đ đã chuyển cho Trần Quốc Đ.
Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và những người tham gia tố tụng không có ý kiến khiếu nại gì nên HĐXX không xem xét.
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 03/10/2021, Trần Quốc Đ đã có hành vi trộm cắp xe ô tô BKS 43A-399.24 nhãn hiệu Mitshubishi, số loại Attrage, màu sơn trắng trị giá 380.400.000đ của vợ chồng chị Trần Thị T và anh Phạm Phú Hoàng Q để cho anh Võ Thanh D thuê lấy 50.000.000đ tiêu xài cá nhân.
[1] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy:
Bị cáo Trần Quốc Đ là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có trình độ học vấn. Lẽ ra, bị cáo phải cố gắng thể hiện mình là công dân hiểu biết và tôn trọng pháp luật. Nhưng bị cáo đã không làm được điều đó. Trong vụ án, bị cáo đã lợi dụng quan hệ gia đình và sự bất cẩn trong việc quản lý tài sản của người bị hại, trộm cắp xe ô tô BKS 43A-399.24 nhãn hiệu Mitshubishi, số loại Attrage trị giá 380.400.000đ của vợ chồng chị Trần Thị T và anh Phạm Phú Hoàng Q để mang đi cho thuê lấy tiền tiêu sài.
Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội: "Trộm cắp tài sản", tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 173 Bộ luật Hình sự như cáo trạng số 25/CT- VKS-NHS ngày 25/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn đã truy tố là đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.
Hành vi của bị cáo không những gây thiệt hại về tài sản cho người bị hại mà còn làm mất trật tự an ninh tại địa phương. Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với mức độ và hành vi của bị cáo đã gây ra mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và răn đe đối với những đối tượng có hành vi tương tự.
Song xét thấy, sau khi vụ án xảy ra bị cáo đã khắc phục hậu quả, nộp lại số tiền mà mình đã nhận của anh Nguyễn Thanh D. Bị cáo có nhân thân tốt, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối hận, tài sản trộm cắp đã được thu hồi trả lại cho người bị hại mà bị hại lại chính là chị ruột của bị cáo, người bị hại đã có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, nên cần áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 BLHS để xét xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cũng là thỏa đáng.
Từ những nhận định ở trên, HĐXX xét thấy không cần thiết phải xử cách ly bị cáo ra ngoài xã hội mà cần áp dụng Điều 65 BLHS để tạo điều kiện cho bị cáo được cải tạo, giáo dục tại địa phương, thể hiện sự khoan hồng đối với bị cáo.
Đối với anh Võ Thanh D không biết Trần Quốc Đ trộm xe của chị Trần T và anh Phạm Phú Hoàng Q. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng không xử lý là có căn cứ.
- Đối với anh Huỳnh L qua xác minh chưa xác định được nhân thân lai lịch. Đối với chủ tài khoản số 1018911535 mang tên “Ngô Văn Phát” qua xác minh chủ tài khoản là Ngô Văn Phát (Sn: 21/8/1990, trú: số 33 đường Nguyễn Văn Linh, quận Lê Trân, thành phố Hải Phòng) nhưng theo xác minh tại địa phương không có ai tên Ngô Văn Phát đang sinh sống hay làm việc. Do đó đề nghị Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau nên không đề cập ở vụ án này.
* Về tang vật:
- Đối với giấy cho thuê xe (bản viết tay) là chứng cứ trong hồ sơ vụ án, cần tiếp tục lưu trữ theo hồ sơ vụ án.
- Đối với 01 điện thoại Iphone 6 Plus gold 16Gb (đã qua sử dụng) là tài sản của Trần Quốc Đ, là phương tiện của Đ sử dụng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội xét thấy cần tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước.
- Đối với 01 đầu vặn vít dài khoảng 03 cm, bằng kim loại xét thấy cần tuyên tịch thu tiêu hủy.
- Đối với số tiền 40.000.000đ Trần Quốc Đ đã giao nộp, xét thấy cần tuyên trả lại cho anh Võ Thanh D.
- Đối với các vật chứng gồm: Xe ôtô nhãn hiệu Mitsubishi, số loại: Attrage, màu sơn: trắng, BKS: 43A-399.24, 01 chìa khóa xe, 01 ốp chìa khóa, 01 giấy chứng nhận kiểm định, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc, 01 giấy chứng nhận điện tử bảo hiểm tự nguyện, 04 giấy biên nhận thế chấp ngân hàng là giấy tờ tài sản của chị Trần T. Ngày 04/11/2021, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng đã trả lại cho chị Trần T là đúng quy định pháp luật nên HĐXX không đề cập đến.
* Về phần dân sự:
- Chị Trần T và anh Phạm Phú Hoàng Q không có yêu cầu gì về phần dân sự nên HĐXX không xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1] Tuyên bố: Bị cáo Trần Quốc Đ phạm tội: " Trộm cắp tài sản" Căn cứ: Điểm a, khoản 3 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54;
Điều 65 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Trần Quốc Đ 03 (ba) năm tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 (năm) năm kể từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo về Ủy ban nhân dân phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng giám sát giáo dục trong suốt thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án cho hưởng án treo.
[2] Về tang vật:
- Tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại Iphone 6 Plus gold 16Gb (đã qua sử dụng) của Trần Quốc Đ.
- Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 đầu vặn vít dài khoảng 03 cm, bằng kim loại.
(Vật chứng trên, hiện đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án quận Ngũ Hành Sơn theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 17/6/2022).
- Tuyên trả lại cho anh Võ Thanh D 40.000.000đ do Trần Quốc Đ giao nộp vào tài khoản 3949.0.9046960.00000, tại kho bạc quận Ngũ Hành Sơn ngày 22/6/2022.
[2] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm, báo cho người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa biết, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Riêng những người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 36/2022/HS-ST
Số hiệu: | 36/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/08/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về