Bản án về tội trộm cắp tài sản số 35/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 35/2022/HS-ST NGÀY 06/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 06 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 30/2022/TLST - HS ngày 14/6/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2022/QĐXXST - HS ngày 21/6/2022 đối với

- Bị cáo: Phùng Văn C (tên gọi khác Ph), sinh năm 1983, tại Hà Nội; đăng ký hộ khẩu thường trú : Thôn V, xã N, huyện P, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phùng Văn H và bà Lê Thị N; vợ, con: Chưa; tiền sự: Không; tiến án: Tại bản án số 356/2008/HSST ngày 28/11/2008, bị Tòa án nhân dân quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội Cướp tài sản (bị cáo chưa nộp 10.500.000 đồng, tiền bồi thường cho anh Hồ Phan Phúc L); nhân thân: Tại bản án số 230/2012/HSST ngày 21/11/2012, bị Tòa án nhân dân quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản; Tại bản án số 53/2016/HSST ngày 09/3/2016, bị Tòa án nhân dân quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Tại Quyết định số 411/2018/QĐ – TA ngày 08/11/2018 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, Quyết định áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 tháng; bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1992 Trú tại: Tiểu khu P, thị trấn M, huyện X, Thành phố Hà Nội.

Chị Th có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biết tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 29/01/2022, Phùng Văn C đến mua thuốc tại cửa hàng thuốc V (cửa hàng thuốc này là của chị Nguyễn Thị Th), thuộc tiểu khu Phú Gia, thị trấn Phú Minh, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội. Tại đây C đứng ngoài quầy thuốc gọi, nhưng không thấy ai trả lời, nên C đi vào bên trong. Khi đi đến phòng ngủ thì phát hiện một chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone XS Max màu vàng, bên trong có sim số 0988568281 của chị Th để trên mặt chiếu dưới nền nhà. Lúc này C nảy sinh ý định trộm chiếc điện thoại này, Cường liền cầm chiếc điện thoại và cất vào trong túi quần rồi đi về. Trên đường về đến đường tỉnh lộ 429, thuộc địa phận tiểu khu Ph, thị trấn Mi, huyện X, Thành phố Hà Nội, Cường tháo sim trong chiếc điện thoại vừa trộm được vứt ở rệ đường, rồi cất chiếc điện thoại tại nhà trọ Cường thuê, ở thôn Đ, xã V, huyện  T, Thành phố Hà Nội. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày chị Nguyễn Thị Th phát hiện bị mất trộm chiếc điện thoại, nên đã đến Công an thị trấn M trình báo.

Do sợ phát hiện, nên khoảng 16 giờ 30 phút ngày 29/01/2022 Phùng Văn C đến Công an thị trấn M đầu thú, giao nộp lại chiếc điện thoại di động Iphone XS Max, màu vàng vừa lấy được của chị Th và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Kết luận định giá tài sản số 12/KL - HĐĐGTS ngày 30/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện X kết luận: 01(Một) điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone XS Max, màu vàng, IMEI1: 357300098800884; IMEI 2: 357300098880753 (điện thoại cũ đã qua sử dụng), thời điểm định giá tháng 01/ 2022, giá trị tài sản 10.500.000 đồng.

01 (Một) sim điện thoại di động mạng Viettel số 0988568281, thời điểm định giá tháng 01/2022, giá trị tài sản 20.000 đồng. Tổng cộng là 10.520.000 đồng (Mười triệu năm trăm hai mươi nghìn đồng).

Tại bản cáo trạng số 30/CT - VKS ngày 14/6/2022 của VKSND huyện Xu đã truy tố Phùng Văn C về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của BLHS.

Tại phiên toà:

Bị cáo Phùng Văn C khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, bị cáo đề nghị Hội đồng xem xét giảm nhẹ mức hình phạt thấp nhất.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện PXuyên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và sau khi đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Phùng Văn C từ 16 đến 20 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Nguyễn Thị Th đã nhận lại tài sản đã bị mất và không có yêu cầu gì thêm, nên trách nhiệm dân sự không đặt ra.

Lời nói sau cùng của bị cáo, bị cáo nhận thấy việc làm của bản thân là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử mở lượng khoan hồng cho bị cáo với mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện X, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện X, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh, nguyên nhân, diễn biết hành vi; căn cứ lời khai nhận của bị cáo, lời khai của bị hại, biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, biên bản tạm giữ, tài sản, đồ vật và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thì có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 29/01/2022, Phùng Văn Cường đã lấy trộm 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone XS Max, màu vàng, bên trong có thẻ sim mang số 0988568281 của chị Nguyễn Thị Th, tại cửa hàng thuốc Vạn Phúc, ở tiểu khu P, thị trấn M, huyện X, Thành phố Hà Nội, trị giá tài sản 10.520.000 đồng. Hành vi của bị cáo Phùng Văn C đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự . Do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện X truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật đã viện dẫn trên là hoàn toàn chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi không chỉ trực tiếp xâm hại đến quyền được bảo vệ hợp pháp về tài sản của công dân mà còn làm mất trật tự trị an ở địa phương, gây sự phẫn nộ trong dư luận quần chúng nhân dân, hơn nữa bị cáo có nhân thân xấu. Vì vậy cần thiết phải xử lý bị cáo với một hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để bị cáo thiếm thía với hành vi sai lầm của mình mà tu tỉnh về sau, đồng thời cũng làm gương cho người khác.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, sau khi phạm tội ra đầu thú, tự nguyện giao nộp tài sản đã trộm cắp, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là các tình tiết quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của BLHS mà giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự nhân đạo của pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có tiền án từ năm 2008 (Bị cáo chưa nộp 10.500.000 đồng, tiền bồi thường cho anh Hồ Phan Phúc L) chưa được xóa án tích nay lại phạm tội do cố ý, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm, quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của BLHS.

Về hình phạt bổ sung là phạt tiền: Xét các bị cáo không có nghề nghiệp thu nhập ổn định, HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình phạt tiền đối với các bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình tố tụng, chị Nguyễn Thị Th đã nhận lại tài sản đã bị mất và không có yêu cầu gì thêm, nên trách nhiệm dân sự không đặt ra.

Ngoài ra buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố bị cáo Phùng Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Phùng Văn C 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Phùng Văn C phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự ; bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 35/2022/HS-ST

Số hiệu:35/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Xuyên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;