Bản án về tội trộm cắp tài sản số 35/2019/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC PHỔ - TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 35/2019/HS-ST NGÀY 30/12/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 12 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 40/2019/TLST-HS ngày 02/12/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

39/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Trung H (tên gọi khác: H Đao) – sinh ngày 20/12/1979 tại huyện X, tỉnh Quảng Ngãi; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã P, huyện X, tỉnh Quảng Ngãi; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; con ông Nguyễn Đức M và bà Lê Thị L; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không, tiền sự: Ngày 22/9/2016, Công an huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi ra Quyết định số 245/QĐ-XPHC xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản với mức phạt 1.500.000đồng; Ngày 21/11/2018, Công an huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi ra Quyết định số 10/QĐ-XPVPHC xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, mức phạt 500.000đồng; Ngày 15/7/2019, bị Công an huyện Đức Phổ xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, mức phạt 750.000 đồng; nhân thân: Ngày 21/10/1999, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 24 tháng tù giam về tội “Gây rối trật tự công cộng”; Ngày 26/10/2000, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Cố ý gây thương tích”; Ngày 12/8/2003, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi có Quyết định số 2064/QĐ-UB(NC) đưa vào Cơ sở giáo dục. Thi hành tại Cơ sở giáo dục A1 ở Phú Yên, chấp hành xong vào ngày 19/8/2005. Ngày 01/02/2012, bị đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc theo Quyết định số 518/QĐ-UBND ngày 20/01/2012 của Chủ tịch UBND huyện Đức Phổ thời hạn 24 tháng, trong thời gian này bị cáo đã bỏ trốn khỏi trung tâm 05 lần; Ngày 27/9/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi tuyên phạt 16 tháng tù về tội “Không chấp hành các quyết định hành chính của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở chữa bệnh”, chấp hành xong vào ngày 21/9/2014. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/10/2019 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Anh Nguyễn Ngọc P – sinh ngày 10/01/2001. Vắng mặt Nơi cư trú: Thôn V, xã P, huyện X, tỉnh Quảng Ngãi Người làm chứng:

- Anh Võ Tấn T– sinh năm 1994 Nơi cư trú: Thôn Đ, xã V, huyện X, tỉnh Quảng Ngãi. Vắng mặt

- Ông Lê Văn M – sinh năm 1984. Vắng mặt Nơi cư trú: Tổ dân phố A, thị trấn A, huyện X, tỉnh Quảng Ngãi

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắc như sau:

Vào khoảng 11 giờ 00 phút ngày 29/6/2019, Nguyễn Trung H điều khiển xe mô tô Attila Victoria màu đen mang BKS: 51K2-359x đến tiệm game CYBER 239 GAMING của ông Võ Tấn T ở thôn Đ, xã P, huyện X, tỉnh Quảng Ngãi để chơi game. Đến khoảng 12 giờ 15 phút cùng ngày, Nguyễn Trung H đi uống nước tại bình chứa nước lọc của tiệm thì thấy một điện thoại di động hiệu OPPO F7 kèm theo ốp lưng của điện thoại là tài sản của Nguyễn Ngọc P để trên bình chứa nước sạc pin không có ai trông coi nên H nảy sinh lòng tham và lấy trộm điện thoại OPPO F7 này rồi rời khỏi tiệm game đi bộ lên hướng QL 1A đón xe buýt đi vào thị trấn A (H để lại xe mô tô tại tiệm game). Trên đường đi vào thị trấn A, Nguyễn Trung H tháo và vứt ốp lưng của điện thoại nhưng không nhớ vứt ở đâu. Khi vào thị trấn A, Nguyễn Trung H đến cửa hàng điện thoại di động Lê M bán cho ông Lê Văn M điện thoại vừa trộm cắp được của Nguyễn Ngọc P với giá 1.800.000 đồng (một triệu tám trăm nghìn đồng). Sau đó, Nguyễn Trung H quay lại tiệm game lấy xe mô tô H đã để lại trước đó. Ông Lê Văn M bán điện thoại OPPO F7 này cho một người không rõ họ tên, địa chỉ với giá 2.100.000 đồng (hai triệu một trăm nghìn đồng).

Cáo trạng số: 40/CT - VKS –ĐP ngày 25/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi đã truy tố Nguyễn Trung H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo với mức án từ 24 đến 30 tháng tù giam. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về phần dân sự: Tài sản đã trả lại cho người bị hại, người bị hại không yêu cầu nên đề nghị miễn xét.

Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra đã tạm giữ: 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM Attila Victoria, màu sơn: đen, số khung: RLCKA12LDBD002924, số máy: VMVT3C-D002924, mang BKS: 51K2-359x. Hiện chiếc xe này không có giấy tờ hợp pháp nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Phổ tiếp tục tạm giữ để xác minh, xử lý trong vụ việc khác là đúng quy định pháp luật.

Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện Đức Phổ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Phổ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Trung H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Phổ đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án nên có cơ sở để xác định: Vào khoảng 12 giờ 15 phút ngày 29/6/2019, bị cáo chơi game tại tiệm của ông Võ Tấn T, lợi dụng không có ai trông coi nên bị cáo đã lấy 01 điện thoại di động hiệu OPPO F7 của anh Nguyễn Ngọc P đang sạt pin rồi bán cho ông Lê Văn M với số tiền 1.800.000đồng. Theo kết luận của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự xác định giá trị chiếc điện thoại OPPO F7 bị cáo trộm là 2.960.000đồng và ốp lưng điện thoại là 20.000đồng. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản. Nên cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Phổ đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất mức độ của hành vi: Bị cáo Nguyễn Trung H là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức điều khiển được hành vi của mình, biết trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật. Bản thân bị cáo đã từng bị xử phạt tù về các tội Gây rối trật tự công cộng, Cố ý gây thương tích, Không chấp hành các Quyết định hành chính của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở chữa bệnh, lẽ ra sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương lấy đó làm bài học lo làm ăn, tu dưỡng rèn luyện bản thân để trở thành người công dân tốt cho gia đình và xã hội. Nhưng ngược lại bị cáo lười lao động, để có tiền tiêu xài cho cá nhân, lợi dụng sự mất cảnh giác của chủ sở hữu bị cáo trộm cắp tài sản. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, là khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Phổ truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, Hội đồng xét xử cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng với tính chất, hành vi và hậu quả của bị cáo gây ra nhằm răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung, đồng thời cũng là một bài học cảnh tỉnh cho những ai có ý định trộm cắp tài sản.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho người bị hại và người bị hại có đơn xin bãi nại về hình sự nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu gì nên không xét.

[7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra đã tạm giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM Attila Victoria, màu sơn: đen, số khung: RLCKA12LDBD002924, số máy: VMVT3C-D002924, mang BKS: 51K2-359x. Mục đích bị cáo điều khiển xe đến tiệm internet để chơi game chứ không có ý định đi trộm cắp, tuy nhiên hiện chiếc xe này không có giấy tờ hợp pháp nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Phổ tiếp tục tạm giữ để xác minh, xử lý trong vụ việc khác là đúng quy định pháp luật.

[8] Đối với chủ cửa hàng điện thoại Lê M là ông Lê Văn M mua điện thoại của bị cáo trộm cắp tuy nhiên trong quá trình mua bán điện thoại ông Lê Văn M không biết chiếc điện thoại di động OPPO F7, màu đỏ mà Nguyễn Trung H bán là tài sản trộm cắp được mà có nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Đức Phổ không xử lý đối với ông Lê Văn M là đúng theo quy định của pháp luật.

[9] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo nộp 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[10] Xét đề nghị của Viện kiểm sát đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trung H phạm tội “Trộm cắp tài sản” Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung H 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/10/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Trung H Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì nên miễn xét.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nguyễn Trung H phải nộp 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 35/2019/HS-ST

Số hiệu:35/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Đức Phổ - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;