TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 34/2021/HSST NGÀY 11/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 11/5/2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện H xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 35/2021/HSST ngày 22/4/2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2021/QĐXXST-HS ngày 26/4/2021 đối với bị cáo:
NGUYỄN VĂN T – Sinh năm 1972. Tại: Bình Thuận. Nơi ĐKHKTT: Thôn Đ, xã M, huyện H, tỉnh Bình Thuận. Chổ ở hiện nay: không cố định.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không.
Trình độ văn hóa: không biết chữ; Nghề nghiệp: không.
Tiền án: 08 tiền án
+ Ngày 15/03/1994 bị Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 02 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 11/11/1995.
+ Ngày 10/02/1996 bị Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 03 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”.
+ Ngày 23/09/1999 bị Tòa án Phúc thẩm Tòa án Tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 29/11/2003.
+ Ngày 28/04/2004 bị Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 04 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 18/10/2007.
+ Ngày 13/05/2008 bị Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 04 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 16/06/2011.
+ Ngày 22/03/2012 bị Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 02 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 10/12/2013.
+ Ngày 22/04/2014 bị Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 03 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 13/12/2016.
+ Ngày 09/5/2017, bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Thuận xử phạt 04 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 22/2017/HSST, chấp hành xong ngày 24/01/2021.
- Tiền sự: Không Cha, mẹ: không rõ.
Gia đình có 02 anh em ruột: lớn nhất sinh năm 1968 (đã chết), nhỏ nhất là bị cáo.
Vợ, con: chưa có.
Bị cáo ra đầu thú và bị tạm giữ từ ngày 23/02/2021. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện H.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Những người tham gia tố tụng:
- Người bị hại:
1/Đỗ Thị L– 1982. Trú tại: Thôn H, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận(vắng mặt).
2/Lê Thanh T – 1982. Trú: khu phố B, phường B, TP.P, tỉnh Bình Thuận(vắng mặt).
- Người làm chứng: NLC – 1964. Trú tại: Thôn H, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận(vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án đối với hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T được tóm tắt như sau:
Sau khi chấp hành án xong phạt tù xong vào ngày 24/01/2021, Nguyễn Văn T đến xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận sống lang thang. Tại đây, T đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản, cụ thể:
Vụ thứ nhất: Chiều ngày 25/01/2021, T đi bộ qua nhà bà Đỗ Thị L (sinh năm 1982, trú thôn H, xã H, huyện H) phát hiện đang để xe mô tô hiệu SEED, BKS 86H6- 8245 ở trước sân nhà bà L, cắm sẵn chìa khóa và không có ai trông coi nên T đã vào mở khóa xe, nổ máy điều khiển xe và làm phương tiện đi lại. Đến ngày 10/02/2021, do xe mô tô này bị hư hỏng nên T đã bỏ ở bên đường gần nhà ông Nguyễn Văn L ở thôn B, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận và T đi bộ vào rừng sinh sống.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 07/2021-HĐĐG ngày 03/3/2021 của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, kết luận: xe mô tô hiệu SEED, BKS 86H6- 8245 có trị giá là 3.000.000 đồng.
Vụ thứ hai: Sáng ngày 15/02/2021, T đi bộ tới thôn B, xã H thì phát hiện xe mô tô hiệu LUCKY, BKS 86F6-6281 của ông Lê Thanh T (sinh năm 1982, trú khu phố B, phường B, thành phố P tỉnh Bình Thuận) đang dựng sát rẫy của ông T, có cắm sẵn chìa khóa và không có người trông coi nên T đã tới mở khóa xe, nổ máy điều khiển đi và làm phương tiện đi lại cho cá nhân. Đến trưa ngày 20/02/2021, khi T đang điều khiển xe mô tô BKS 86F6-6281 trên đường liên xã hướng xã H đi xã M thì bị NLC (sinh năm 1964, trú thôn B, xã H, huyện H) đang điều khiển xe mô tô đi ngược chiều phát hiện ra xe BKS 86F6-6281 (do trước đó NLC nghe được thông tin ông T bị mất xe mô tô BKS 86F6-6281) nên NLC đã điều khiển xe quay lại, rượt đuổi theo T. Chạy được khoảng 500m thì T bỏ xe lại và chạy bộ vào rừng bỏ trốn. Đến ngày 23/02/2021, T ra đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình thoát.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 08/2021-HĐĐG ngày 03/3/2021 của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, kết luận: xe mô tô hiệu LUCKY, BKS 86F6-6281 có trị giá là 3.000.000 đồng.
Tổng giá trị mà Nguyễn Văn T đã trộm cắp là 6.000.000 đồng.
* Vật chứng của vụ án:
01 xe mô tô SEED, BKS 86H6-8245; 01 xe mô tô hiệu LUCKY, BKS 86F6- 6281. Ngày 11/03/2021, CQĐT Công an huyện H đã trả lại tài sản cho các chủ hở hữu là: xe mô tô hiệu SEED, BKS 86H6-8245 cho bà Đỗ Thị L; xe mô tô hiệu LUCKY, BKS 86F6-6281 cho ông Lê Thanh T.
* Về trách nhiệm dân sự:
Tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi và trả lại cho các bị hại, nên các bị hại không có yêu cầu gì về dân sự.
Tại bản cáo trạng số 39/CT-VKS ngày 20/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố Nguyễn Văn T về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H giữ quyền công tố luận tội, tranh luận và phát biểu quan điểm xử lý vụ án như sau: Viện kiểm sát nhân dân huyện H giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn T.
Đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố: Nguyễn Văn T, phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng: điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.
Đề nghị xử phạt: Nguyễn Văn T từ 03 năm tù đến 04 năm tù.
Vật chứng vụ án: xử lý xong.
Phần dân sự: xong.
Tại phiên tòa bị cáo thống nhất quan điểm luận tội của Viện kiểm sát, không tranh luận gì thêm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện H, tỉnh Bình Thuận. Điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Bình Thuận. Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy trình của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện điều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại; người làm chứng và chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở xác định:
Sau khi chấp hành án xong phạt tù xong vào ngày 24/01/2021, bị cáo Nguyễn Văn T đến xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận sống lang thang. Tại đây, T đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản, cụ thể:
Chiều ngày 25/01/2021, bị cáo T vào nhà bà Đỗ Thị L, trú thôn H, xã H, huyện H lấy trộm 01 xe mô tô hiệu SEED, BKS 86H6-8245 của bà L, bị cáo nổ máy điều khiển xe đi và làm phương tiện đi lại. Đến ngày 10/02/2021, do xe mô tô này bị hư hỏng nên bị cáo T đã bỏ ở bên đường ở thôn B, xã H, huyện H.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 07/2021-HĐĐG ngày 03/3/2021 của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, kết luận: xe mô tô hiệu SEED, BKS 86H6- 8245 có trị giá là 3.000.000 đồng.
Tiếp đến, sáng ngày 15/02/2021, bị cáo T lấy trộm 01 xe mô tô hiệu LUCKY, BKS 86F6-6281 của ông Lê Thanh T đang dựng ở rẫy, bị cáo nổ máy điều khiển xe đi và làm phương tiện đi lại. Đến trưa ngày 20/02/2021, khi bị cáo T đang điều khiển xe mô tô BKS 86F6-6281 trên đường liên xã hướng xã H đi xã M thì bị NLC phát hiện, NLC điều khiển xe quay lại, rượt đuổi theo bị cáo T. Bị cáo T bỏ xe lại chạy bộ vào rừng bỏ trốn. Đến ngày 23/02/2021 ra đầu thú.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 08/2021-HĐĐG ngày 03/3/2021 của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, kết luận: xe mô tô hiệu LUCKY, BKS 86F6-6281 có trị giá là 3.000.000 đồng.
Tổng giá trị bị cáo Nguyễn Văn T đã chiếm đoạt là 6.000.000 đồng(Sáu triệu đồng).
Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T là cố ý, là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản”, bị cáo đã có 08 tiền án về tội: “Trộm cắp tài sản” tính đến ngày bị cáo phạm tội chưa được xóa án tích, nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” đây là tình tiết định khung hình phạt đối với bị cáo. Tội phạm và khung hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự như nội dung cáo trạng đã truy tố của Viện kiểm sát là có căn cứ. Mặc dù bị cáo không có nghề nghiệp và có 08 tiền án đều là tội trộm cắp tài sản, nay lại tiếp tục trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, bị cáo chỉ sử dụng tài sản trộm cắp để làm phương tiện đi lại, không bán để tiêu xài, không làm nguồn sống chính cho bản thân nên không thỏa mãn các điều kiện của “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”.
Bị cáo Nguyễn Văn T là công dân có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bản thân bị cáo đã nhiều lần bị xét xử về tội này chưa được xóa án tích nên hoàn toàn nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản của người khác là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm. Thế nhưng vì muốn có phương tiện đi lại nên bị cáo đã bất chấp các quy định của pháp luật thực hiện hành vi phạm tội. Lẽ ra khi chấp hành xong hình phạt tù, bị cáo phải ăn năn hối cãi để trở thành công dân tốt, nhưng ngược lại khi chấp hành xong hình phạt tù bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, thể hiện rõ bản chất xem thường pháp luật, chưa ăn năn hối cãi, nên cần có mức án nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội, đồng thời răn đe giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.
Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như mức độ phạm tội của bị cáo để có mức hình phạt thích hợp tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.
Bị cáo đã hai lần thực hiện hành vi trộm cắp và đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Đây là, tình tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội hai lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ra đầu thú. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 nên cần áp dụng cho bị cáo.
[3]Vật chứng vụ án:
01 xe mô tô SEED, BKS 86H6-8245; 01 xe mô tô hiệu LUCKY, BKS 86F6- 6281. Ngày 11/03/2021, CQĐT Công an huyện H đã trả lại tài sản cho các chủ hở hữu là: xe mô tô hiệu SEED, BKS 86H6-8245 cho bà Đỗ Thị L; xe mô tô hiệu LUCKY, BKS 86F6-6281 cho ông Lê Thanh T. Xét thấy đã xử lý xong.
[4]Trách nhiệm dân sự:
Các bị hại vắng mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên trong hồ sơ thể hiện các bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm phần dân sự và đề nghị xét xử bị cáo theo pháp luật. Xét thấy phần dân sự giải quyết xong.
[5]Về án phí: bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
TUYÊN BỐ: Bị cáo Nguyễn Văn T, phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.
XỬ PHẠT: Nguyễn Văn T 03(Ba) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ ngày 23/02/2021.
Căn cứ Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (11/5/2021). Các bị hại vắng mặt báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 34/2021/HSST
Số hiệu: | 34/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Bắc - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về