Bản án về tội trộm cắp tài sản số 34/2021/HS-ST

TÒA ÁNNHÂN DÂN HUYỆN ĐẠI L, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 34/2021/HS-ST NGÀY 10/08/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 10 tháng 8 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ĐẠI L, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 34/2021/TLST-HS ngày 14 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2021/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đoàn Thị Ph; Tên gọi khác: Không có, sinh ngày: 04 tháng 9 năm 1989 tại ĐẠI L, Quảng Nam. HKTT, chỗ ở hiện nay: thôn Đầu G, xã Đại S, huyện ĐẠI L, tỉnh Quảng N, Nghề nghiệp: Nông; Trình độ học vấn: 9/12, dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đoàn V (chết), con bà: Hồ Thị H (1964); hiện làm nông và trú tại thôn Nghĩa T, xã Đại Ng, huyện ĐẠI L, tỉnh Quảng Nam; gia đình có 2 chị em, bị cáo là con đầu.

Chồng: Mai Mạnh H (sinh năm: 1982, trú thôn Đầu Gò, xã Đại S, huyện ĐẠI L, tỉnh Quảng Nam). Bị cáo có 02 con, sinh năm 2011 và năm 2014.

Tiền án: Ngày 29/6/2020 bị Tòa án nhân dân huyện ĐẠI L tuyên phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tiền sự: không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Nguyễn Thị É, sinh năm 1974; trú tại: thôn An Lợi T, xã Đại Ng, huyện ĐẠI L, tỉnh Quảng Nam; (có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Võ Thị Diệu H, sinh năm 1987;

trú tại: thôn Nghĩa T, xã Đại Ng huyện ĐẠI L, tỉnh Quảng Nam ; (có mặt).

* Người làm chứng: Lê Thị Ngọc D, sinh năm 1996; trú tại: khu Hòa Đ, thị trấn Ái Ng, huyện ĐẠI L, tỉnh Quảng Nam; (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đoàn Thị Ph (sinh năm: 1989, trú thôn Đầu Gò, xã Đại S, huyện ĐẠI L, tỉnh Quảng Nam), ngày 29/6/2020 bị Tòa án nhân dân huyện ĐẠI Ltuyên phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 01/3/2021, Ph đến nhà ông Lê Văn N ở thôn An Lợi T, xã Đại Ng để mua gạo. Trong lúc chờ máy gạo thì Ph đi sang nhà bà Nguyễn Thị E (sinh năm 1974, bên cạnh nhà máy gạo) để mua nước uống. Khi vào nhà Ph không thấy ai nên gọi “cô ơi” nhưng không ai trả lời, Ph tiếp tục bước xuống nhà bếp thì phát hiện 01 điện thoại Huawei Y7 Pro màu đỏ của bà É đang để trên bàn nên Ph nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại trên để bán lấy tiền tiêu xài. Ph quan sát xung quanh không có ai nên đi đến lấy chiếc điện thoại bỏ vào túi quần rồi về nhà mẹ ruột là bà Hồ Thị H (sinh năm 1964, trú thôn Nghĩa T, xã Đại Ng), đồng thời Ph tắt nguồn điện thoại vừa trộm được. Đến 14 giờ 30 phút cùng ngày, Ph gọi điện cho chị Võ Thị Diệu H (sinh năm 1987, trú thôn Nghĩa Tây, xã Đại Ng) nhờ chị H cầm giúp chiếc điện thoại của em trai mình mấy ngày, nghe vậy H đồng ý. Khoảng 10 phút sau Ph mang chiếc điện thoại Huawei Y7 Pro màu đỏ vừa trộm được đến nhà chị H, sau khi kiểm tra điện thoại không khóa màn hình, chị H thống nhất cầm với giá 1.500.000 đồng. Ph tháo 02 sim trong máy ra bỏ vào túi quần rồi đưa điện thoại cho chị H, cầm tiền đi về. Trên đường về Ph làm rơi hai thẻ sim trên, số tiền cầm điện thoại Ph đã tiêu xài cá nhân hết. Còn bà É, sau khi phát hiện điện thoại mất đã đi tìm đến tối ngày 01/3/2021 phát hiện facebook của mình đang online nên nhắn tin hỏi thì biết được chị H đang giữ điện thoại của mình nên trình báo công an xã Đại Ng. Quá trình điều tra, Đoàn Thị Ph đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 11 ngày 13/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện ĐẠI Lvề giá trị của một điện thoại hiệu Huawei Y7 Pro trị giá 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng). (BL 27) - Vật chứng của vụ án:

- 01 (một) điện thoại Huawei Y7 Pro màu đỏ. Cơ quan CSĐT đã thu giữ và trao trả cho chủ sở hữu. (BL: 43-44) - Xử lý vật chứng: không.

- Về dân sự: bị hại Nguyễn Thị É đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì. Chị Võ Thị Diệu H yêu cầu Đoàn Thị Ph trả lại số tiền 1.500.000 đồng.

Tại cáo trạng số 34/CT-VKSĐL ngày 12/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại L truy tố bị cáo Đoàn Thị Ph về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐẠI L, tỉnh Quảng Nam giữ nguyên quan điểm truy tố đồng thời đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1, Điều 51, Điều 38 BLHS năm 2015. Xử phạt bị cáo Đoàn Thị Ph từ 06 tháng đến 09 tháng tù. Áp dụng Điều khoản 5 Điều 65 BLHS chuyển 09 tháng tù cho hưởng án treo của bản án Hình sự số 25/HS- ST ngày 29/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đai L, tỉnh Quảng Nam thành 09 tháng tù giam. Áp dụng Điều 56 BLHS tổng hợp hình phạt chung cho cả hai bản án nói trên từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Tại hồ sơ vụ án, người bị hại, người liên quan, người làm chứng khai về diễn biến vụ trộm cắp tài sản do bị cáo Đoàn Thị Ph thực hiện như nội dung đã được mô tả tại cáo trạng truy tố.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo không bị ép cung, mớm cung, dùng nhục hình mà đã được Điều tra viên, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử phổ biến về quyền, nghĩa vụ của mình trong từng giai đoạn tố tụng và tự khai báo về hành vi phạm tội của mình. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên; Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1]. Về tội danh và khung hình phạt: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đoàn Thị Ph đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại L, tỉnh Quảng Nam đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Hội đồng xét xử có cơ sở xác định được: Đoàn Thị Ph đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” năm 2020, chưa được xóa án tích. Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 01/3/2021, Ph vào nhà của Nguyễn Thị É (sinh năm: 1974, trú thôn An Lợi Tây, xã Đại Ng), lợi dụng nhà bà É không có ai ở nhà Ph lấy 01 điện thoại di động Huawei Y7 Pro màu đỏ của bà É trị giá 1.500.000 đồng. Quá trình điều tra, Đoàn Thị Ph đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

[2.2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo thì thấy: Đoàn Thị Ph là người trưởng thành, có hiểu biết pháp luật, bị cáo nhận thức được rằng quyền sở hữu đối với tài sản được pháp luật bảo vệ, đó là quyền bất khả xâm phạm. Thế nhưng, với động cơ vụ lợi, mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác mà không phải bỏ công sức lao động, bị cáo đã bất chấp các quy định của pháp luật, đạo đức xã hội, lÉ lút lấy trộm 01 điện thoại Huawei Y7 Pro của bà É với giá trị tài sản trộm cắp là 1.500.000 đồng. Ngày 29/6/2020 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Đại L, tỉnh Quảng nam tuyên phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng (tính từ ngày 19/6/2020) về tội “Trộm cắp tài sản” (theo bản án số 25/HS- ST ngày 29/6/2020) thế nhưng trong thời gian thử thách án treo bị cáo Đoàn Thị Ph lại tiếp tục có hành vi trộm cắp tài sản của bà É, mặc dù tài sản trộm cắp theo kết quả của Hội đồng định giá xác định là 1.500.000 đồng nhưng hành vi của bị cáo Ph đủ yếu tố cấu thành tội “trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1, Điều 173 BLHS. Do vậy, 09 tháng tù cho hưởng án treo của bản án này sẽ chuyển thành 09 tháng tù giam cộng với hình phạt của bản án mới ( Điều 56, theo khoản 5 Điều 65 BLHS) là phù hợp với quy định pháp luật. Do vậy, cần phải xử lý bị cáo nghiêm minh mới có tác dụng ren đe và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo nhận tội . Bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn. Hội đồng xét xử áp dụng điểm s, h khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp.

[4] Về các vấn đề khác trong vụ án:

- Đối với Võ Thị Diệu H (sinh năm 1987, trú thôn Nghĩa Tây, xã Đại Ng) vào khoảng 15 giờ ngày 01/3/2021, cầm cố chiếc điện thoại do Ph trộm cắp mà có. Khi cầm cố H không biết chiếc điện thoại do phạm tội mà có, nhưng ngày 02/3/2021, bà Nguyễn Thị É biết được chị H đang giữ điện thoại, É đã gặp chị H để chuộc lại điện thoại nhưng điện thoại không có thẻ sim nên É không chuộc. Trong lúc, H tìm Ph để xác minh chiếc điện thoại do phạm tội mà có hay không nhưng chưa gặp được Ph thì ngày 04/3/2021, bà É đã đến công an xã Đại Ng để trình báo. Do đó, hành vi của H không đủ yếu tố cấu thành tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” nên cơ quan CSĐT không xử lý là phù hợp.

- Đối với 02 thẻ sim trong điện thoại Huawei Y7 Pro, quá trình điều tra bị cáo Ph không biết mình làm rơi ở đâu và bị hại Nguyễn Thị É cũng không yêu cầu gì nên không đề cập giải quyết.

- Vật chứng của vụ án: 01 (một) điện thoại Huawei Y7 Pro màu đỏ. Cơ quan CSĐT đã thu giữ và trao trả cho chủ sở hữu nên HĐXX không đề cập.

- Về dân sự: Bà Võ Thị Diệu H yêu cầu Đoàn Thị Ph trả lại số tiền 1.500.000 đồng là phù hợp. Tại hồ sơ vụ án người bị hại bà Nguyễn Thị É không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Thị Ph phạm tội “Trộm cắp tài sản”

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 BLHS năm 2015.

- Xử phạt: Bị cáo Đoàn Thị Ph 06 (sáu ) tháng tù.

- Áp dụng: Khoản 5 Điều 65, Bộ luật hình sự 2015.

Chuyển 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo của Tòa án nhân dân huyện ĐẠI L, tỉnh Quảng Nam ngày 29/6/2020 (Bản án số 25/HS- ST ngày 29/6/2020) đối với bị cáo Đoàn Thị Ph thành 09 (chín) tháng tù giam.

*Tổng hợp hình phạt:

Áp dụng khoản 2, Điều 56 Bộ luật hình sự: Buộc bị cáo Đoàn Thị Ph phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án nêu trên là 01(một) năm 03(ba) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù: Tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án.

* Về dân sự: Áp dụng Điều 48 BLHS, Điều 584 Bộ luật dân sự:

Tuyên xử: Buộc bị cáo Đoàn Thị Ph có trách nhiệm trả cho bà Võ Thị Diệu H số tiền 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm ngàn đồng).

Kể từ ngày bà H có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, nếu bị cáo Đinh Thị Ph không chịu bồi thường số tiền nói trên cho người bị hại thì hằng tháng bà Đoàn Thị Ph phải chịu tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự là 10%.

- Về án phí: Buộc bị cáo Đoàn Thị Ph phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên Tòa có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 34/2021/HS-ST

Số hiệu:34/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đại Lộc - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;