Bản án về tội trộm cắp tài sản số 34/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI HÀ, TỈNH QUẢNG NINH

 BẢN ÁN 34/2021/HS-ST NGÀY 26/07/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 7 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 30/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 6 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 7 năm 2021 đối với:

- Bị cáo: Lương Thị M1; Sinh ngày 24/9/1992 tại huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn. Nơi cư trú: thôn N1, xã Y, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lương Văn A và bà Lương Thị O1; Chồng, con: Chưa có; Tiền án, Tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/7/2020 đến ngày 06/8/2020, bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Ngày 04/6/2021, bị cáo bị bắt tạm giam, hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hải Hà.

- Bị hại: anh Chíu Dì S1, sinh ngày 20/5/1995.

Địa chỉ: Thôn 1, xã Đ1, huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người làm chứng: Ty Đức T1, sinh năm 1957.

Địa chỉ: Số 36 phố L1 thị trấn X, huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do từng có thời gian ở nhà anh Chìu Dì S1 tại thôn 1, xã Đường Hoa, huyện Hải Hà nên Lương Thị M1 nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của anh S1 để có phương tiện đi lại và tiền tiêu sài. Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 30/7/2020, M1 đón xe taxi đi từ Đầm Hà đến gần nhà anh S1, sau đó đi bộ vào. Lúc này khoảng 00 giờ ngày 31/7/2020, M1 tháo dây buộc ở cổng rồi đi vào nhà. Lợi dụng mọi người trong nhà đều ngủ, M1 đi thẳng vào phòng ngủ của S1, lục lọi tủ thì thấy trong ngăn tủ có 01 ví tiền nên M1 lấy toàn bộ số tiền trong ví là 250.000 đồng rồi đi ra phòng khách. Tại đây M1 thấy có 01 chiếc chìa khóa xe máy ở trên kệ gỗ nên M1 lấy chìa khóa rồi đi ra phía ngoài nhà nơi dựng 02 chiếc xe máy. M1 dùng chìa khóa mở được chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu xanh, BKS 14L1- 094.45 rồi dắt ra ngoài đường nổ máy xe đi thẳng về nhà nghỉ Tài Thặng tại phố Lê Lương, thị trấn Đầm Hà, huyện Đầm Hà là nơi M1 thuê phòng nghỉ trước đó. Đến khoảng 03 giờ ngày 31/7/2020, anh S1 phát hiện bị mất tài sản nên đến công an trình báo. Quá trình rà soát, công an huyện Hải Hà đã phát hiện chiếc xe bị mất tại nhà nghỉ Tài Thặng. Cơ quan công an đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Lương Thị M1.

Tại Kết luận định giá tài sản số 543/KL ngày 05/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện Hải Hà thể hiện: chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu xanh, biển kiểm soát 14L1-094.45 là vật chứng vụ án tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị 12.600.000 (mười hai triệu sáu trăm nghìn) đồng. (Bút lục số 68).

Vật chứng gồm: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu xanh, BKS 14L1- 094.45 cơ quan điều tra đã trả cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Chíu Dì S1.

Về phần dân sự: người bị hại là anh Chíu Dì S1 yêu cầu Lương Thị M1 phải bồi thường số tiền 250.000 đồng đã chiếm đoạt. Hiện M1 chưa bồi thường số tiền này cho bị hại.

Quá trình điều tra vụ án, xét thấy bị can phạm tội ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, có nơi cư trú rõ ràng, không có dấu hiệu bỏ trốn, nên ngày 06/8/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hà đã ban hành Quyết định hủy bỏ biện pháp tạm giữ; Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị can. Tuy nhiên, sau khi được tại ngoại, bị can Lương Thị M1 đã bỏ trốn khỏi địa phương. Ngày 02/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hải Hà đã ra Quyết định truy nã bị can số 03. Ngày 31/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đầm Hà đã bắt được bị can Lương Thị M1.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hải Hà còn xác định bị can Lương Thị M1 có dấu hiệu bị tâm thần phân liệt thể thanh xuân. Sau khi tiến hành giám định tâm thần, tại Kết luận giám định pháp y tâm thần số 131/KLGĐ ngày 07/5/2021 của Viện pháp y tâm thần trung ương đã kết luận: “Trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội ngày 31/7/2020 và tại thời điểm giám định bị can Lương Thị M1 bị bệnh chậm phát triển tâm thần nhẹ. Theo phân loại bệnh Quốc tế thứ 10 năm 1992, bệnh có mã số F70. Tại thời điểm phạm tội và tại thởi điểm giám định bị can hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lương Thị M1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. (Bút lục số 174, 178). Nói lời sau cùng, bị cáo ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bị hại là anh Chíu Dì S1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa, đồng thời có quan điểm: Về dân sự: Quá trình điều tra, truy tố anh yêu cầu bị cáo phải trả anh số tiền 250.000đ, nay anh không yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 250.000đ. Về hình sự: Đề nghị Tòa án xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật.

Người làm chứng là ông Ty Đức T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên quá trình điều tra ông đã có lời khai thể hiện: Chiếc xe máy Honda Wave màu xanh, BKS 14L1-094.45 do Lương Thị M1 mang đến nhà nghỉ Tài Thặng là vào khoảng 00 giờ 19 phút, ngày 31/7/2020, đồng thời chứng kiến việc M1 khai nhận với cơ quan công an là chiếc xe máy trên do M1 trộm cắp mà có.

Với nội dung trên tại bản Cáo trạng số 33/CT-VKSHH ngày 25/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hà truy tố bị cáo Lương Thị M1 về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm q, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lương Thị M1 từ 06 tháng đến 09 tháng tù, được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hải Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung đã khai nhận tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với vật chứng đã được thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo thừa nhận: những lời khai tại cơ quan điều tra là tự nguyện, đúng sự thật, không bị ép cung, mớm cung hoặc nhục hình; kết hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được làm rõ tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy đủ căn cứ để kết luận bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như sau: Khoảng 00 giờ ngày 31/7/2020, tại nhà anh Chíu Dì S1 ở thôn 1, xã Đường Hoa, huyện Hải Hà, Lương Thị M1 có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave BKS 14L1-094.45 trị giá 12.600.000 đồng và số tiền 250.000 đồng của anh S1, tổng giá trị tài sản M1 chiếm đoạt là 12.850.000 (mười hai triệu tám trăm năm mươi nghìn) đồng.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” thuộc trường hợp “1. trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hà đã truy tố là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và hình phạt đối với bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý; xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác và gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo là người đã thành niên nhưng không chịu lao động chân chính mà đi trộm cắp tài sản của người khác để phục vụ nhu cầu cá nhân. Mặt khác, quá trình điều tra, khi được tại ngoại tại nơi cư trú, bị cáo đã bỏ trốn và bị bắt theo Quyết định truy nã, nên mặc dù bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng thuộc trường hợp không cho hưởng án treo. Vì vậy cần phải có một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, lấy giáo dục riêng để phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Xét nhân thân bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng: không có. Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm q, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hải Hà đã trả lại bị hại là anh Chíu Dì S1 tài sản là 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave BKS 14L1-094.45 mà bị cáo đã chiếm đoạt. Đối với số tiền 250.000đ, bị hại không yêu cầu bị cáo phải trả lại và không yêu cầu bồi thường gì thêm. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Về án phí: Bị cáo Lương Thị M1 phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lương Thị M1 phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Áp dụng khoản 1 điều 173; điểm q, i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lương Thị M1 06 (Sáu) tháng tù, Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 04/6/2021 (Được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/7/2020 đến 06/8/2020 và từ ngày 31/12/2020 đến ngày 30/3/2021).

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Lương Thị M1 phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

3. Về quyền kháng cáo: Áp dụng khoản 1 Điều 331 và khoản 1, 3 Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 34/2021/HS-ST

Số hiệu:34/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Hà - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;