Bản án về tội trộm cắp tài sản số 33/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 33/2023/HS-ST NGÀY 22/03/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 3 năm 2023, tại Phòng xử án Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 16/2023/TLST-HS ngày 13 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2023/QĐXXST-HS ngày 07/02/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2023/HSST-QĐ ngày 23/02/2023, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Hoàng K (Tên gọi khác: /), sinh ngày 12/9/1992 tại Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu phố A, phường T, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: Không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 4/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; họ và tên cha: Nguyễn Hoàng B, họ và tên mẹ: Tạ Thị Thanh V; chưa có vợ con; tiền án: Không; tiền sự: Quyết định số 787/QĐ-TA ngày 18/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; chấp hành xong ngày 30/12/2021; nhân thân: Bản án số 138/2012/HSST ngày 17/8/2012, Tòa án Nhân dân Quận C tuyên xử 03 (ba) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Chấp hành xong án phạt tù ngày 31/8/2013, chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm năm 2013.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/10/2022; có mặt tại phiên tòa.

2. Huỳnh Hà Khánh N (Tên gọi khác: /), sinh ngày 05/8/1995 tại Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: Nữ; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Phường D, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: Không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; họ và tên cha: Huỳnh Công M (đã chết), họ và tên mẹ: Hà Lệ H; có chồng là Nguyễn Hoàng A, sinh năm 1991, có 01 con sinh năm 2018; tiền án - tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/10/2022; có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hoàng K: Bà Huỳnh Thị Ngọc H – Luật sư Công ty Luật V thuộc đoàn Luật sư tỉnh Đ; địa chỉ: Đường T, phường TT, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh; (có mặt).

Bị hại: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1982; địa chỉ: xã NM, huyện AN, tỉnh BĐ; chỗ ở: đường LV, phường TK, Quận V, Thành phố Hồ Chí Minh; (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1984; địa chỉ: xã NM, huyện AN, tỉnh Đ;

chỗ ở: đường H, phường BH, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; (vắng mặt).

2. Ông Huỳnh Anh T, sinh năm 1997; địa chỉ: đường VV, Phường X, Quận R, Thành phố Hồ Chí Minh; tạm trú: xã BH, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh; (vắng mặt).

3. Ông Vũ Văn L, sinh năm 1965; địa chỉ: xã BC, huyện BĐ, Thành phố Hồ Chí Minh; (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 00 ngày 12/10/2022, Nguyễn Hoàng K điều khiển xe máy hiệu Wave biển số: 53X9-4606, màu xanh, chở Huỳnh Hà Khánh N cùng con riêng của N sinh năm 2018, đi từ Quận 8 qua Quận 7, tìm kiếm tài sản sơ hở để trộm cắp. K chuẩn bị trước 01 bộ đoản tự chế, khi đến trước địa chỉ số 67 đường Nguyễn Đổng Chi, khu phố Hưng Thái 2, phường Tân Phong, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, K phát hiện xe máy, biển số: 77H6-4251, không người trông coi. K kêu N ngồi trên xe cảnh giới, K xuống xe đi bộ đến dùng đoản tự chế phá ổ khóa lấy trộm xe. Sau khi lấy được xe, K điều khiển xe vừa trộm cắp được, N điều khiển xe của K tẩu thoát. Sau đó, cả hai đem xe máy trộm cắp được đến tiệm cầm đồ “Thành Tín 1”, địa chỉ: B2/21A, ấp 2A, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, cầm cố được 3.500.000đ (Ba triệu năm trăm nghìn) đồng. K đưa cho N toàn bộ số tiền tiền trên để tiêu xài chung.

Đến ngày 17/10/2022, K liên lạc với Huỳnh Anh T, nói xe máy Honda loại C100, màu đỏ đen, biển số: 77H6-4251 của K đang cầm ở tiệm cầm đồ “Thành Tín 1”, nhờ T đi chuộc xe và tìm người bán dùm, T đồng ý, T không biết xe là tài sản do K trộm cắp có được. K đưa cho T 01 giấy cầm đồ của tiệm cầm đồ “Thành Tín 1” và 01 bản photo căn cước công dân mang tên Nguyễn Hoàng K. Sau đó, T liên hệ với TH không rõ nhân thân, lai lịch, hỏi bán xe máy biển số:

77H6-4251 với giá 5.000.000 đồng.

Đến khoảng 18 giờ 00 cùng ngày, “TH” liên lạc lại với T nói đã có người đồng ý mua xe. T đến tiệm cầm đồ “Thành Tín 1” chuộc xe ra hết 3.620.000 đồng, rồi điều khiển xe đến trước cổng Công viên Đầm Sen gặp TH và người mua xe. T bán xe được 4.200.000 đồng, đưa lại cho K 600.000 đồng tiền bán xe; T giữ 3.600.000 đồng, là tiền của T dùng để chuộc xe ra.

Đến khoảng 19 giờ 25 phút ngày 18/10/2022, K điều khiển xe máy Wave màu xanh, biển số: 53X9-4606, chở N và con của N cùng nhau qua nhà bố mẹ của K tại chung cư Tân Mỹ, Quận 7, khi đến ngã tư đường Nguyễn Văn Linh và đường Nguyễn Đức Cảnh, Quận 7 thì bị Công an phường Tân Phong, Quận 7 kiểm tra và mời về trụ sở làm rõ xử lý.

Kết luận định giá tài sản số 408/KL–HĐ ĐGTTHS ngày 27/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân Quận 7, kết luận: 01 xe gắn máy hiệu Honda C100, màu đỏ đen, biển số 77H6-4251, có giá trị 4.300.000 đồng.

Vật chứng vụ án: 01 (một) miếng kim loại hình chữ nhật, dài khoảng 13cm, rộng khoảng 03 cm, một đầu có rảnh nằm ngang; 01 (một) thanh kim loại màu trắng, dẹp, một đầu nhọn, một đầu tròn; 01 (một) xe gắn máy Wave, màu xanh, biển số: 53X9-4606; 01 (một) điện thoại Nokia; 01 (một) điện thoại Nokia, màu xanh; 01 (một) điện thoại Samsung Galaxy J4 màu vàng.

Cáo trạng số 28/CT-VKSQ7 ngày 12/01/2023 của Viện kiểm sát Nhân dân Quận 7 truy tố các bị cáo Nguyễn Hoàng K, Huỳnh Hà Khánh N về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hoàng K thống nhất với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 về tội danh và điểm, khoản, điều luật áp dụng. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các bị cáo có trình độ học vấn thấp, tài sản chiếm đoạt có giá trị nhỏ, gây thiệt hại không lớn, áp dụng thêm Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho các bị cáo hưởng mức án khoan hồng với hình phạt nhẹ nhất.

Tại phiên tòa, bị hại trình bày: Các bị cáo trộm cắp lấy mất xe gắn máy hiệu Honda C100, màu đỏ đen, biển số 77H6-4251 của bị hại, quá trình điều tra bị hại yêu cầu bồi thường xe bị mất theo định giá tài sản là 4.300.000 (Bốn triệu ba trăm nghìn) đồng. Nhưng nay bị hại tự nguyện không yêu cầu các bị cáo bồi thường nữa.

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát Nhân dân Quận 7 vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hoàng K, Huỳnh Hà Khánh N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng Khoản 1 Điều 173; điểm s Khoản 1 Điều 51, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt: Nguyễn Hoàng K từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù; Áp dụng Khoản 1 Điều 173; điểm i, s Khoản 1 Điều 51, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt: xử phạt: Huỳnh Hà Khánh N từ 06 tháng đến 01 năm tù.

Đề nghị xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) miếng kim loại hình chữ nhật, dài khoảng 13cm, rộng khoảng 03 cm; 01 (một) thanh kim loại màu trắng, dẹp, một đầu nhọn, một đầu tròn. Thông báo trong thời hạn 60 (sáu mươi) ngày trên phương tiện thông tin đại chúng để tìm chủ xe hợp pháp đối với chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Wave, màu xanh, biển số: 53X9-4606. Quá thời hạn thông báo trên vẫn không xác định được chủ xe hợp pháp thì xử lý theo quy định về tài sản vắng chủ. Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại Nokia; 01 (một) điện thoại Nokia, màu xanh. Trả lại cho Huỳnh Anh T 01 (một) điện thoại Samsung Galaxy J4 màu vàng.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền 4.300.000 (Bốn triệu ba trăm nghìn) đồng, nên không xét. Các bị cáo phải nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 4.100.000 (Bốn triệu một trăm nghìn) đồng.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Các bị cáo không tự bào chữa, không tranh luận, thể hiện sự ăn năn hối cải, xin lỗi bị hại, đề nghị được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an Quận 7, Điều tra viên, Viện kiểm sát Nhân dân Quận 7, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và hình phạt:

[3] Căn cứ lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án, xét có đủ cơ sở để kết luận: Các bị cáo Nguyễn Hoàng K, Huỳnh Hà Khánh N đã lợi dụng tài sản không người trông coi, lén lút chiếm đoạt xe gắn máy hiệu Honda C100, màu đỏ đen, biển số 77H6-4251, đem cầm cố, bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Kết luận định giá tài sản số 408/KL-HĐ ĐGTTHS ngày 27/10/2022 giá trị tài sản tại thời điểm bị chiếm đoạt 4.300.000 (Bốn triệu ba trăm nghìn) đồng. Do đó, hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 như Cáo trạng của Viện kiểm sát Nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Xét các bị cáo đã có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, biết rõ trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Vì động cơ, mục đích tham lam, muốn có tiền tiêu xài cho bản thân nhưng lười lao động. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm, đã xâm hại trực tiếp đến tài sản sở hữu hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, an toàn ở địa phương, cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục cải tạo riêng và ngăn ngừa chung trong xã hội.

[5] Trong vụ án các bị cáo sử dụng xe gắn máy cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản đem bán chia nhau tiền tiêu xài, các bị cáo là đồng phạm có tính chất giản đơn.

[6] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

[7] Bị cáo Nguyễn Hoàng K có nhân thân xấu: Bản án số 138/2012/HSST ngày 17/8/2012, Tòa án Nhân dân Quận 5 tuyên xử 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” và có tiền sự: Quyết định số 787/QĐ-TA ngày 18/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; chấp hành xong ngày 30/12/2021.

[8] Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra, các bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện ăn năn hối cải, nên xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo theo quy định điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo N phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được xem xét áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định điểm i Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[9] Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét quyết định mức hình phạt cho tương xứng với tính chất vụ án, vai trò, nhân thân của các bị cáo.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại tự nguyện không yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại, nên ghi nhận.

[11] Đối với Huỳnh Anh T là bạn của K, nghe K bị gãy tay không có tiền đi bệnh viện nên khi K nhờ đi bán xe T đồng ý, T không biết xe do trộm cắp mà có, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý là có căn cứ.

[12] Đối với ông Vũ Văn L nhận cầm cố xe máy hiệu Honda C100, màu đỏ đen, biển số 77H6-4251 từ bị cáo Nguyễn Hoàng K, ông Liên không biết tài sản do trộm cắp mà có nên chưa đủ căn cứ để xử lý. Tuy nhiên hành vi nhận cầm cố tài sản thuộc sở hữu của người khác nhưng không có giấy ủy quyền hợp lệ của chủ tài sản, cho người mang tài sản đi cầm cố của ông Vũ Văn L đã vi phạm điểm l Khoản 3 Điều 12 Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính Phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội, phòng chống tệ nạn xã hội, phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã văn bản đề nghị Công an xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xử lý hành vi của ông Liên là phù hợp quy định của pháp luật.

[13] Đối với đối tượng tên Trắng, đối tượng mua xe gắn máy hiệu Honda C100, màu đỏ đen, biển số 77H6-425, do bị cáo K nhờ Huỳnh Anh T bán, do chưa xác định rõ nhân thân lai lịch, nên cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ có căn cứ sẽ xử lý sau.

[14] Xử lý vật chứng vụ án:

[15] 01 (một) miếng kim loại hình chữ nhật, dài khoảng 13cm, rộng khoảng 03 cm, một đầu có rảnh nằm ngang; 01 (một) thanh kim loại màu trắng, dẹp, một đầu nhọn, một đầu tròn; là dụng cụ bị cáo K tự chế dùng phá ổ khóa xe gắn máy để trộm cắp, nên tịch thu tiêu hủy.

[16] Xe gắn máy Wave, màu xanh, biển số: 53X9-4606, kết quả xác minh xe do ông Phan Thanh H đứng tên sở hữu. Ông H đã bán xe từ năm 2008, hiện không biết ai là chủ sở hữu và không có yêu cầu gì đối với xe này. Bị cáo K sử dụng để đi trộm cắp tài sản, nên đề nghị thông báo trong thời hạn 60 (sáu mươi) ngày trên phương tiện thông tin đại chúng để tìm chủ xe hợp pháp đối với chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Wave, màu xanh, biển số: 53X9-4606. Quá thời hạn thông báo trên vẫn không xác định được chủ xe hợp pháp thì xử lý theo quy định về tài sản vắng chủ.

[17] 01 (một) điện thoại Nokia thu giữ của bị cáo K; 01 (một) điện thoại Nokia, màu xanh, thu giữ của bị cáo N; các bị cáo sử dụng điện thoại trong việc thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[18] 01 (một) điện thoại Samsung màu vàng Galaxy J4, thu giữ của Huỳnh Anh T, do T dùng để liên lạc với bị cáo Nguyên Hoàng K, liên lạc với TH để bán xe gắn máy hiệu Honda C100, màu đỏ đen, biển số 77H6-425. Tuy nhiên, Huỳnh Anh T không biết xe gắn máy hiệu Honda C100, màu đỏ đen, biển số 77H6-425 do trộm cắp mà có, nên trả lại điện thoại Samsung màu vàng Galaxy J4 cho Huỳnh Anh T.

[19] Sau khi lấy trộm được tài sản, các bị cáo đã đem cầm cố được 3.500.000đ (Ba triệu năm trăm ngàn) đồng và có được tiền bán xe là 600.000 (Sáu trăm nghìn) đồng, các bị cáo cùng tiêu xài cá nhân hết, nên buộc các bị cáo nộp lại số tiền thu lợi bất chính tổng cộng 4.100.000 (Bốn triệu một trăm nghìn) đồng. Mỗi bị cáo nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 2.050.000 (Hai triệu không trăm năm mươi nghìn) đồng.

[20] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Hoàng K, Huỳnh Hà Khánh N cùng phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1.1. Áp dụng Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hoàng K 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ 21/10/2022.

1.2. Áp dụng Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Hà Khánh N 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ 21/10/2022.

2. Áp dụng Điều 47 Bộ Luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2021:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) miếng kim loại hình chữ nhật, dài khoảng 13cm, rộng khoảng 03 cm, một đầu có rảnh nằm ngang; 01 (một) thanh kim loại màu trắng, dẹp, một đầu nhọn, một đầu tròn.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại Nokia; 01 (một) điện thoại Nokia, màu xanh.

Trả lại cho Huỳnh Anh T 01 (một) điện thoại Samsung Galaxy J4 màu vàng. Thông báo trong thời hạn 60 (sáu mươi) ngày trên phương tiện thông tin đại chúng để tìm chủ xe hợp pháp đối với chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Wave, màu xanh, biển số: 53X9-4606. Quá thời hạn thông báo trên vẫn không xác định được chủ xe hợp pháp thì xử lý theo quy định về tài sản vắng chủ.

(Biên bản về việc giao nhận vật chứng số 38 ngày 17/01/2003 – Bút lục 205A). Buộc Nguyễn Hoàng K nộp lại số tiền thu lợi bất chính 2.050.000 (Hai triệu không trăm năm mươi nghìn) đồng.

Buộc Huỳnh Hà Khánh N nộp lại số tiền thu lợi bất chính 2.050.000 (Hai triệu không trăm năm mươi nghìn) đồng.

3. Về án phí: Áp dụng các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc Nguyễn Hoàng K nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Buộc Huỳnh Hà Khánh N nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo và đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đến Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đến Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

5. Về quyền, nghĩa vụ thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

48
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 33/2023/HS-ST

Số hiệu:33/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;