Bản án về tội trộm cắp tài sản số 31/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÔNG CÔNG, TỈNH THÁI NGUYÊN

 BẢN ÁN 31/2021/HS-ST NGÀY 23/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 33/2021/HSST ngày 02 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Mạnh D, sinh ngày 01/10/2003, Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm La Vương, xã Hóa Trung, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 10/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Nguyễn Văn H sinh năm 1980 và bà: Vi Thị T sinh năm 1978 (Đều trú tại Xóm la Vương, xã Hóa Trung, huyện Định Hóa); bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 21/01/2021 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Mạnh D là ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1980 và bà Vi Thị T, sinh năm 1978; Cùng nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm La Vương, xã Hóa Trung, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên (là bố đẻ và mẹ đẻ của bị cáo D) có mặt

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Mạnh D là bà Hoàng Thị B –Luật sư, do Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thái Nguyên cử để trợ giúp pháp lý cho bị cáo. (có mặt)

* Bị hại:

- Anh Triệu Tài Kh, sinh năm 2001; địa chỉ: Xóm Làng Mười, xã Dân Tiến, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. (có mặt)

- Anh Lường Văn Q, sinh năm 1988; địa chỉ: xóm Bản Đén, xã Quảng Chu, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn (Vắng mặt)

*Ngýời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

- Đào Xuân L, sinh ngày 29/9/1999, Nơi ĐKHKTT: Xóm Đội Cấn, xã Tân Cương, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên (Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên).(có mặt)

- Lê Minh Q1, sinh ngày 19/5/2004; Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Xóm Đồng Mới (trước là xóm Nà Pheo), xã Phú Thượng, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên; (Vắng mặt)

Người đại diện cho Lê Minh Q1, đồng thời là ngýời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án:

Ông Lê Văn K, sinh năm 1963; địa chỉ: xóm Đồng Mới (trước là xóm Nà Pheo), xã Phú Thượng, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên (là bố đẻ của Q).(Vắng mặt)

- Ông Nguyễn Thiện D1, sinh năm 1963; địa chỉ: Thôn Liễu Thượng, xã Đại Xuân, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh;(Vắng mặt)

- Anh Phạm Trọng Th, sinh năm 1989; địa chỉ: Thôn Phúc Lộc, xã Châu Phong, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.(Vắng mặt)

* Người chứng kiến: Ông Phạm Quang V, sinh năm 1960; địa chỉ: Tổ dân phố Làng Mới, phường Bách Quang, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên.(Vắng mặt)

*Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 2000; địa chỉ: xóm Đ, xã Ng huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.(Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 20/12/2020, Đào Xuân L, Lê Minh Q1 và Nguyễn Mạnh D ăn cơm tại phòng trọ của L tại tổ dân phố Làng Mới, phường Bách Quang, thành phố Sông Công. Ăn cơm xong, Q1 rủ L và D cùng nhau đi trộm cắp xe mô tô bán lấy tiền chia nhau. Do trước đây L đã từng làm việc tại Công ty SV tại tổ dân phố Tân Dương, phường Bách Quang, thành phố Sông, nên L nói với Q1 và D ở sân của Công ty có nhiều xe mô tô của công nhân đi làm, dễ lấy trộm. Nghe L nói vậy, D và Q1 đồng ý, cả ba thống nhất, sau khi lấy trộm được xe mô tô thì sẽ dắt bộ ra ngoài để cậy yếm, đấu nối dây điện để nổ máy xe rồi cùng nhau bỏ trốn. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, cả ba đến Công ty SV có địa chỉ nêu trên. L đứng phía sau xe ô tô tải đỗ trong sân Công ty để cảnh giới, Q1 và D vào sân của Công ty, nơi để xe mô tô để trộm cắp. Khi D và Q1 vào đến sân thì phát hiện thấy 02 xe mô tô không khóa cổ, Q1 dắt chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner biển số 20D1 - 186.xx, D dắt chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển số 20N3 - 74xx. Khi ra khỏi cổng Công ty thì L đi đến đẩy xe cùng D, rồi cả ba cùng nhau đi về hướng Công ty TNG khoảng 100 mét thì rẽ vào một ngõ bên trái để tìm cách nổ máy xe. Tại đó, Q1 cậy yếm chiếc xe Honda Winner, L cùng D cậy yếm xe Yamaha Sirius để đấu dây điện nổ máy. Sau khi xe mô tô nổ máy, Q1 điều khiển chiếc xe Honda Winner chở Luyện, còn D điều khiển xe Yamaha Sirius cùng nhau đi về khu dân cư Hồng Thái, huyện Đồng Hỷ. Trên đường đi, Q1 tháo Biển kiểm soát xe Honda Winner ném vào bụi cây rìa đường, rồi điều khiển xe đi về huyện Võ Nhai, còn L và D quay lại thành phố Sông Công. Khi về gần đến phòng trọ, L bảo D giấu chiếc xe ở phía sau Đền Liệt sỹ thuộc phường Bách Quang, rồi cả hai đi bộ về phòng trọ. Đến khoảng 10 giờ ngày 21/12/2020, D và L quay lại lấy xe đi bán thì không thấy chiếc xe Yamaha Sirius đâu nữa.

Đối với Q, sau khi trộm cắp được chiếc xe Honda Winner X biển số 20D1 - 186.xx, Q1 đem về nhà sử dụng, nói dối gia đình là xe Q1 mua trả góp. Đến khoảng cuối tháng 12/2020, Q1 cùng D mang chiếc xe mô tô Honda Winner X biển số 20D1 - 186.xx đến cửa hàng cầm đồ, mua bán xe máy cũ Ngọc Long của ông Nguyễn Thiện D tại thôn Giai Liễu, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh để cầm cố vay tiền. Ông D1 hỏi đăng ký xe thì Q1 nói bố Q1 đang cầm. Sau đó Q1 để lại Giấy chứng minh nhân dân và cầm cố chiếc xe, vay của Ông D1 7.000.000 đồng, Ông D1 nhận cầm cố và đưa tiền cho Q. Đến ngày 03/01/2021, Q1 cùng bố là ông Lê Văn K đến gặp Ông D1 trả 7.400.000 đồng, lấy xe mô tô về. Đến ngày 11/01/2021, Q1 tiếp tục đến cửa hàng của Ông D1 để cầm cố xe. Tại đây, Q1 gặp Ông D1 và anh Phạm Trọng Th (là người làm tại quán của Ông D1), Q1 nói “cho cháu để lại chiếc xe, cháu lấy giấy tờ xuống sau”, anh Th hỏi Q1 về nguần gốc xe, Q1 nói xe của bố mua, giấy tờ xe bố đang cầm. Lúc này, Ông D1 nói “xe này đã cầm ở đây một lần và bố nó đã xuống lấy xe về” và Ông D1 đã đồng ý cho Q1 cầm cố chiếc xe trên để vay số tiền 7.000.000 đồng. Khoảng 10 ngày sau không thấy Q1 đến lấy xe, nên Ông D1 đã bảo Thành bán xe đi, Thành đã sử dụng mạng xã hội Facebook đăng thông tin bán xe thì có một nam T niên (Thành không biết tên tuổi, địa chỉ) nhắn tin hỏi mua. Sau đó người này đến gặp Thành tại cửa hàng Ngọc Long và mua chiếc xe mô tô trên với giá 11.500.000 đồng.

Sau khi phát hiện bị mất xe mô tô, các công nhân Công ty SV là anh Lường Văn Q là chủ xe mô tô Yamaha Sirius, BKS 20N3- 74xx và anh Triệu Tài Kh là chủ xe mô tô Honda Winner X, BKS 20D1 - 186.xx có đơn trình báo Công an phường Bách Quang, đồng thời anh Kh giao nộp 01 đĩa CD chứa dữ liệu hình ảnh trộm cắp cho Công an phường Bách Quang. Công an phường Bách Quang đã chuyển hồ sơ vụ án đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sông Công giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 12/12/2020, Công an phường Bách Quang truy tìm phát hiện thu giữ chiếc xe mô tô Yamaha Sirius, BKS 20N3 - 74xx của anh Lường Văn Q tại khu đất trống phía sau nhà ông Phạm Quang Vinh thuộc tổ dân phố Làng Mới, phường Bách Quang, thành phố Sông Công . Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra cũng đã thu giữ được Biển kiểm soát 20D1 - 186.xx của xe mô tô Honda Winner X. Còn chiếc xe Honda Winner X đến nay chưa thu hồi được.

Tại Kết luận định giá tài sản số 09/KL-HĐĐGTS ngày 11/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Sông Công, kết luận: Xe mô tô WinnerX, nhãn hiệu Honda, BKS 20D1 - 186.xx có giá trị là 40.000.000 đồng; Kết luận định giá tài sản số 10/KL-HĐĐGTS ngày 18/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Sông Công, kết luận: Xe mô tô Sirius RC, nhãn hiệu Yamaha, BKS 20N3 - 74xx có giá trị là 4.500.000 đồng.

Cơ quan điều tra tiến hành kiểm tra dữ liệu điện tử thu giữ từ Camera an ninh của Công ty TNHH SV thu giữ, bị cáo Q1 và D xác định hình ảnh hai nam T niên thực hiện hành vi trộm cắp 02 chiếc xe mô tô tối ngày 20/12/2020 là Q1 và D.

Về vật chứng của vụ án: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, BKS: 20N3 - 74xx và chiếc Biển kiểm soát 20D1 - 186.xx, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu để quản lý.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Lường Văn Q đã nhận lại tài sản (xe mô tô Yamaha Sirius, BKS 20N3 - 74xx), không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường. Tại phiên tòa, anh Triệu Tài Kh không yêu cầu bị cáo D phải bồi thường. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì.

Trong giai đoạn truy tố, bị cáo Nguyễn Mạnh D đã bỏ trốn. Hết thời hạn truy tố, Viện kiểm sát đã ra Quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với Nguyễn Mạnh D, tách vụ án, yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can theo quy định.

Đến ngày 24/5/2021 Nguyễn Mạnh D đã ra đầu thú tại Cơ quan Công an thành phố Sông Công. Cùng ngày, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sông Công đã ra Quyết định số: 01/QĐ-VKS -TN – QĐ phục hồi vụ án đối với bị can.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Mạnh D khai nhận về diễn biến, nội dung sự việc diễn ra đúng như đã nêu ở phần trên, lời khai của D phù hợp với lời khai của Đào Xuân L và Lê Minh Q1 và lời khai những người bị hại Triệu Tài Kh và Lường Văn Q, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thiện D và Phạm Trọng Th, những người làm chứng Nguyễn Văn Toản và Phạm Quang Vinh.

Tại bản cáo trạng số 36/ CT - VKS ngày 31/5/ 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh D phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, các Điều 90, 91, 98, 100, khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo D từ 09 đến 12 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo; Về trách nhiệm dân sự: Những người bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì nên không xem xét; Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị cáo D nhất trí với phần tội danh, điều luật áp dụng mà bản Cáo trạng và Luận tội của Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh D theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình Sự về tội “ Trộm cắp tài sản ’’. Tuy nhiên bị cáo là người phạm tội 16 đến 18 tuổi nên nhận thức còn hạn chế. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng một mức án thấp nhất là 06 tháng; Đề nghị miễn hình phạt bổ xung đối với bị cáo; Về trách nhiệm dân sự không xem xét giải quyết vì bị cáo Q, L đã bồi thường xong trong vụ án khác.

Bị cáo nói lời sau cùng là bị cáo đã nhận thức được lỗi lầm của mình xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Sông Công, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sông Công, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, vắng mặt những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Lê Minh Q1, Người đại diện cho Lê Minh Q1, đồng thời là ngýời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án ông Lê Văn K; ông Nguyễn Thiện D; Anh Phạm Trọng Th. Tuy nhiên, những người tham gia tố tụng nêu trên đều có đơn xin xét xử vắng mặt và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 292 Bộ luật tố tụng Hình sự, đồng thời vắng mặt những người làm chứng nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 293 Bộ luật tố tụng Hình sự vẫn tiến hành xét xử vụ án là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án: Tại giai đoạn điều tra và phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi, diễn biến nội dung sự việc đúng như nội dung kết luận điều tra và cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; biên bản khám nghiệm và sơ đồ hiện trường, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác Cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, có đủ cơ sở xác định: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 20/12/2020, tại phòng trọ của Đào Xuân Luyện, sau khi nghe Lê Minh Q1 rủ L và D đi trộm cắp xe mô tô bán lấy tiền chia nhau tiêu sài. Đến khoảng 21 giờ, Luyện, Q1 và D đến Công ty SV có địa chỉ tại tổ dân phố Tân Dương, phường Bách Quang, thành phố Sông Công. Tại đây, L đứng ngoài cảnh giới cho Q1 và D trộm cắp 02 xe mô tô của anh Lường Văn Q và anh Triệu Tài Kh, với tổng trị giá là 44.500.000 đồng.

Tuy nhiên, trong giai đoạn truy tố, Nguyễn Mạnh D đã bỏ trốn, Viện kiểm sát đã ra Quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can D, tách vụ án và đã truy tố, xét xử Đào Xuân L và Lê Minh Q1 ở vụ án khác là phù hợp với quy định của pháp luật.

Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Mạnh D đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Nội dung điều luật quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng …. thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Trong vụ án này, anh Phạm Trọng Th do không biết chiếc xe mô tô Q1 cầm cố là tài sản do phạm tội mà có nên không có cơ sở xem xét, xử lý trách nhiệm. Đối với ông Nguyễn Thiện D, do không biết chiếc xe Q1 cầm cố là tài sản do phạm tội mà có, tin tưởng xe mô tô là của Q1 nên đã nhận cầm cố không có giấy đăng ký xe, Công an thành phố Sông Công ra quyết định xử lý hành chính đối với Ông D1 là đúng quy định pháp luật.

[3] Đánh giá về tính chất hành vi phạm tội; vai trò, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

3.1. Về tính chất hành vi phạm tội: Hành vi của phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương.

3.2. Về vai trò của bị cáo: Trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo D cấu kết với những đối tượng khác một cách giản đơn nên không có vai trò là người cầm đầu. Bị cáo D cùng các đối tượng Luyện, Q1 cùng rủ nhau đi trộm cắp tài sản L đứng ngoài cảnh giới, để Q1 và Nguyễn Mạnh D trực tiếp thực hiện hành vi lấy trộm xe mô tô của người bị hại, sau đó cũng nhau phá khóa, đem 02 xe mô tô rời khỏi hiện trường.

3.3. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo sinh ra, lớn lên tại địa phương, có đủ khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo D hiện không có tiền án, tiền sự, có nhân thân tốt. Tại thời điểm phạm tội bị cáo D chưa đủ 18 tuổi.

3.4. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là “người phạm tội thành khẩn khai báo” và “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Căn cứ vào tính chất của vụ án, vai trò, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Mặc dù tính chất hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nhưng hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện mang tính manh động, gây tâm lý hoang mang cho nhân dân nên cần thiết phải xét xử bị cáo bằng án phạt tù, buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian nhất định mới đủ điều kiện đảm bảo cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và phòng ngừa chung. Khi lượng hình, Hội đồng xét xử sẽ xem xét, cân nhắc đến tính chất, vai trò, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo, để xét xử mức án phạt tù phù hợp. Bị cáo là người từ 16 đến 18 tuổi phạm tội, nên được áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, cụ thể theo quy định tại khoản 6 Điều 91, khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự, khi quyết định hình phạt chính là hình phạt tù, thì mức phạt cao nhất được áp dụng đối với bị cáo không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Trong vụ án này, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo chưa đủ 18 tuổi, chưa có công việc ổn định và thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn: Áp dụng Điều 123 và Điều 124 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm hoãn xuất cảnh và cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án là cần thiết.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Anh Lường Văn Q đã nhận lại tài sản (chiếc xe mô tô Yamaha Sirius, BKS 20N3 - 74xx), không yêu cầu bị cáo phải bồi thường.

Tại phiên tòa, người bị hại anh Triệu Tài Kh không yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền tương đương với giá trị tài sản là chiếc xe mô tô WinnerX, nhãn hiệu Honda, BKS 20D1 - 186.xx mà bị cáo cùng Đào Xuân Luyện, Lê Minh Q1 trộm cắp của anh Kh mà đến nay chưa thu hồi được, theo định giá là 40.000.000 đồng; Do vấn đề này được anh Triệu Tài Kh và Đào Xuân Luyện, Lê Minh Q1 đã thỏa thuận trong vụ án khác được xét xử nên không đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, bị cáo cùng các đối tượng Đào Xuân Luyện, Lê Minh Q1 đã cùng nhau bàn bạc, cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, nên cùng phải có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại tài sản cho người bị hại Khải. Tuy nhiên, tại phiên tòa xét xử Đào Xuân Luyện, Lê Minh Q1 cùng về hành vi phạm tội, Luyện, Q1 đã thỏa thuận sẽ có trách nhiệm liên đới bồi thường cho anh Kh toàn bộ số tiền 40.000.000 đồng (Mỗi bị cáo bồi thường số tiền 20.000.000 đồng). Sau này nếu có tranh tranh chấp về vấn đề liên đới bồi thường đối với bị hại giữa bị cáo D với Luyện, Q1 thì sẽ được giải quyết ở một vụ án dân sự khác khi có yêu cầu.

[6] Về vật chứng của vụ án: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, BKS 20N3 - 74xx và chiếc Biển kiểm soát 20D1 - 186.xx, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Lường Văn Q và anh Triệu Tài Kh là đúng quy định pháp luật. Đối với xe mô tô Honda Winner X, BKS 20D1 - 186.xx, anh Th đã bán lại cho người không rõ tên tuổi, địa chỉ đến nay chưa thu hồi được. [7] Về án phí: Các bị cáo là người bị kết án, nên phải chịu án phí hình sự, ngoài ra các bị cáo còn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện và người bào chữa cho bị cáo dưới 18 tuổi; người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Các Điều 136, 299, Điều 414, 423, 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí, lệ phí; Nghị quyết số 326/ 2016/ NQ – UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Luật Thi hành án dân sự.

* Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Mạnh D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Về điều luật áp dụng và hình phạt:

1.1. Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Các Điều 90, 91, khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Mạnh D 9 (chín) tháng tù, thời hạn tù tình từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Mạnh D .

2. Về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn: Áp dụng Điều 123 và Điều 124 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm hoãn xuất cảnh và cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo Nguyễn Mạnh D để đảm bảo cho việc thi hành án.

3. Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Không xem xét.

4. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Mạnh D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm

5. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, người đại diện và người bào chữa cho bị cáo là bà Hoàng Thị B – Luật sư, người bị hại anh Triệu Tài K; vắng mặt người bị hại anh Lường Văn Q và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Minh Q1, ông Lê Văn K, ông Nguyễn Thiện D và anh Phạm Trọng T.

Báo cho bị cáo, người đại diện cho bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người bị hại là anh Kh biết, được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Người bị hại là anh Q và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Lê Minh Q1, ông Lê Văn K Ông D1 và anh Th biết, được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 31/2021/HS-ST

Số hiệu:31/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sông Công - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;