TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ L, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 30/2024/HS-ST NGÀY 04/04/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 04 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã L, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 27/2024/TLST-HS ngày 13 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2024/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 3 năm 2024, đối với bị cáo:
Võ Minh H, sinh năm 1995 tại Q;
Nơi cư trú: Thôn Xuân Vinh, xã Hành Đức, huyện N. H, tỉnh Q; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 0;
Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Không rõ; Con bà: Đoàn Thị Thu N, sinh năm 1971 Gia đình có một mình bị cáo. Vợ, con: Chưa có.
Tiền án, Tiền sự: Không.
Ngày 04/01/2024, bị cáo Võ Minh H bị bắt theo Quyết định truy nã của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thị xã L, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ của Công an thị xã L. Bị cáo có mặt tại phiên toà.
* Bị hại: Ông Ngô Thanh C – sinh năm 1992. Vắng mặt.
Nơi cư trú: Khu phố 4, phường Bình Tân, thị xã L, tỉnh B.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Y – sinh năm 1993.
Có đơn xin xử vắng mặt.
Nơi cư trú: Khu phố 1, phường Phước Lộc, thị xã L, tỉnh B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 10 giờ 00’ ngày 14.10.2022, bị cáo Võ Minh H đến phòng trọ của Ngô Thanh C để chơi. Khi vào trong phòng, bị cáo H thấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung M23 của ông C đang để trên nệm ngủ nên nảy sinh ý định lấy trộm. Lợi dụng lúc ông C đi ra ngoài, bị cáo H đi đến lấy chiếc điện thoại Samsung M23 của Ngô Thanh C bỏ vào trong túi quần rồi đi ra khỏi phòng trọ. Sau khi lấy trộm được điện thoại, bị cáo đem đến tiệm điện thoại T.K ở khu phố 1, phường Phước Lộc, thị xã L cầm cố cho Nguyễn Thị Y được số tiền 2.500.000 đồng. Bị cáo H sử dụng số tiền này để tiêu xài cá nhân và bị cáo đã bỏ trốn khỏi địa phương. Sau khi ông C phát hiện điện thoại bị mất đã làm đơn trình báo với chính quyền địa phương. Đến ngày 15/10/2022 Công an phường B. T thu giữ được chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung M23 mà bị cáo H đã lấy trộm của ông C rồi chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã L để xử lý theo thẩm quyền. Đến ngày 04/01/2024, bị cáo H bị bắt theo Quyết định truy nã của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã L.
*Tại Kết luận định giá tài sản số: 60/KL-ĐGTS ngày 26/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã L, kết luận: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy M23 5G, 128G, màu xanh rêu, bị bể kính đã qua sử dụng còn hoạt động, có giá trị là 3.500.000 đồng.
Vật chứng thu giữ trong vụ án đã được xử lý như sau: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy M23 5G, 128G, màu xanh rêu, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã L đã trả lại cho bị hại là ông Ngô Thanh C.
Về dân sự: Sau khi bị hại ông Ngô Thanh C nhận lại tài sản thì bị hại không yêu cầu bồi thường gì về phần dân sự; Bà Nguyễn Thị Y yêu cầu bị cáo Hoàng phải trả lại số tiền 2.500.000 đồng.
Sau khi phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân của bị cáo; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã L giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản Cáo trạng số: 32/CT-VKSLG-HS ngày 13/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố bị cáo Võ Minh H, về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
sản”.
Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố: Bị cáo Võ Minh H, phạm tội “Trộm cắp tài Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, Điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Võ Minh H từ: 09 tháng đến 12 tháng tù.
- Ý kiến của bị cáo Võ Minh H: Đồng ý với nội dung luận tội của Kiểm sát viên, nên không có ý kiến tranh luận.
* Bị cáo Võ Minh H nói lời sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là sai trái, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về sự có mặt của người tham gia tố tụng tại phiên tòa: Bị hại ông Ngô Thanh C và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Y vắng mặt, Ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo là đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử xét thấy, việc vắng mặt của ông C, bà Y không gây trở ngại cho việc xét xử, vì lời khai của họ đã khai đầy đủ thể hiện rõ trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt là phù hợp với quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.
[3] Về hành vi phạm tội: Xét thấy, lời khai của bị cáo Võ Minh H tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại và đối chiếu với những tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở và căn cứ pháp lý để Hội đồng xét xử kết luận: Vào khoảng 10 giờ ngày 14/10/2022, tại phòng trọ thuộc khu phố 4, phường Bình Tân, thị xã L, bị cáo Võ Minh H có hành vi lấy trộm chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung M23 trị giá 3.500.000 đồng của Ngô Thanh C rồi đem đến tiệm điện thoại Thảo Khánh ở khu phố 1, phường Phước Lộc, thị xã L cầm cố cho bà Nguyễn Thị Y được 2.500.000 đồng. Đến ngày 15/10/2022, hành vi phạm của bị cáo Võ Minh H bị phát hiện, Công an phường B.T đã thu giữ được vật chứng rồi chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã L để xử lý theo thẩm quyền.
Qua đó cho thấy hành vi của bị cáo Võ Minh H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố đối với bị cáo Võ Minh H về tội danh, điều luật áp dụng là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Bị cáo Võ Minh H đã lợi dụng sự sơ hở trong quản lý tài sản của người khác để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Như vậy, hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý và đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, do đó hành vi của bị cáo là xem thường pháp luật, ảnh hưởng đến an ninh trật tự của địa phương và nguy hiểm cho xã hội.
[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng: Không.
Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo H thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[6] Về hình phạt: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo đã nhận thức rõ được “Trộm cắp tài sản” của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì lợi ích bản thân, bị cáo bất chấp. Vì vậy, cần xử lý nghiêm khắc nhằm cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để bị cáo lao động, học tập, giáo dục trở thành con người có ích cho gia đình và xã hội.
[7] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[8] Về xử lý vật chứng: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy M23 5G, 128G, màu xanh rêu, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã L đã trả lại cho bị hại là ông Ngô Thanh C.
[9] Về dân sự: Sau khi bị hại ông Ngô Thanh C nhận lại tài sản thì bị hại không yêu cầu bồi thường gì về phần dân sự; Bà Nguyễn Thị Y yêu cầu bị cáo H phải trả lại số tiền 2.500.000 đồng, tại phiên toà bị cáo H đồng ý nên bị cáo H phải hoàn trả lại cho bà Nguyễn Thị Y số tiền 2.500.000 đồng.
[10] Về án phí: Bị cáo Võ Minh H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự;
- Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
- Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;
Tuyên bố: Bị cáo Võ Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Võ Minh H 09 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 04/01/2024.
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng: Điều 357 Bộ luật dân sự.
Tuyên: Buộc bị cáo Võ Minh H phải hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Y số tiền 2.500.000 (Hai triệu năm trăm nghìn) đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Về án phí: Bị cáo Võ Minh H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo Võ Minh H có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (04/4/2024). Riêng bị hại ông Ngô Thanh C và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Y có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung.
Bản án 30/2024/HS-ST về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 30/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị Xã La Gi - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về