Bản án về tội trộm cắp tài sản số 30/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YK, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 30/2021/HS-ST NGÀY 28/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28/05/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện YK, tỉnh Ninh Bình; xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 17/2021/TLST-HS ngày 27/04/2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2021/QĐXXST-HS ngày 24/05/2021 đối với các bị cáo:

1. Lê Thanh T sinh năm 1992, tại xã P, huyện YK, tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú thôn S, xã P, huyện YK, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp lao động tự do; trình độ văn hoá 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Lê Công B và bà Trịnh Thị H; vợ con chưa có; tiền sự không; tiền án ngày 19/08/2015 bị Tòa án nhân dân huyện YK xử phạt 04 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 16/8/2016 bị Tòa án nhân dân huyện YK xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 26/4/2019 bị Tòa án nhân dân huyện YK xử phạt 25 tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”; bị cáo bị tạm giam từ ngày 25/03/2021 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh cho đến nay; có mặt.

2. Đinh Trọng L sinh năm 1996, tại xã P, huyện YK, tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú thôn H, xã P, huyện YK, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp lao động tự do; trình độ văn hoá 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Đinh Văn L và bà Lê Thị N; vợ con chưa có; tiền án không; tiền sự ngày 28/04/2020 bị Công an huyện YK xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, ngày 22/9/2020 bị Chủ tịch UBND xã P áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, ngày 26/10/2020 bị Công an huyện Hoa Lư xử phạt 350.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”; bị cáo bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình từ ngày 30/03/2021 cho đến nay; có mặt.

Người bị hại: Vợ chồng anh Phạm Văn D sinh năm 1975 và chị Hoàng Thị T1 sinh năm 1981; địa chỉ thôn T, xã A, huyện YK, tỉnh Ninh Bình; đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 30 ngày 07/03/2021 L gọi điện thoại cho T hỏi “Tối nay có đi không” ý của L là gọi T đi trộm cắp tài sản; T đồng ý và nói “Đợi anh tý” và nói với L đợi ở khu vực Chùa Vệ. T điều khiển xe mô tô biển số 35B2-825.07 và mang theo một bao tải đến đón L; L mang theo một bộ kích điện và chiếc tròng chó có dây điện, giấu ở gốc cây tại Chùa Vệ. Khi T đến L lấy bộ kích điện và chiếc tròng chó mang ra đấu vào nguồn điện ắc quy của xe mô tô biển số 35B2-825.07, bộ kích điện được giấu ở trong cốp xe mô tô, còn tròng chó nối với bộ kích điện thì L cầm ở tay. Sau đó T điều khiển xe mô tô chở L ngồi sau đi đến khu vực thôn T, xã A, thì phát hiện thấy 01 con chó lông màu “đen - xám - vàng” của gia đình anh D chị T1, quan sát thấy không có người T điều khiển xe mô tô áp sát con chó để cho L ngồi sau xe mô tô đưa thòng lọng ở đầu chiếc tròng chó quàng vào cổ con chó và giật để thòng lòng siết lại, đồng thời bấm công tắc kích điện để con chó bị tê liệt; T tiếp tục tăng ga xe mô tô kéo theo con chó bỏ chạy. Cùng lúc này chị T1 phát hiện hô hoán, anh D và một số người dân đuổi theo T và L; do xe mô tô chạy với tốc độ cao, T không làm chủ được tay lái nên T điều khiển xe mô tô lao xuống kênh. T và L bỏ xe mô tô và con chó lại rồi bỏ chạy, T chạy được một đoạn thì bị anh D và một số người dân bắt được đưa về trụ sở UBND xã A giao cho Công an xã A. Con chó của gia đình anh D chị T1 bị kích điện bất tỉnh, sau khi tỉnh lại con chó đã chạy khỏi kiện trường đến khoảng 23 giờ cùng ngày mới về nhà.

Ngày 08/03/2021 Cơ quan điều tra Công an huyện YK, tiến hành cân xác định khối lượng con chó, kết quả con chó có khối lượng là 23 kg.

Kết luận định giá tài sản số 04/KLĐG ngày 19/03/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện YK kết luận: Chó (loại chó lai), giống chó cái, lông màu đen - xám - vàng, cân nặng 23 kg, chó còn sống trị giá là 2.231.000 đồng.

Cáo trạng số 19/CT-VKS-YK ngày 27/04/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện YK truy tố các bị cáo T và L về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự đối với T và theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự đối với L. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trình bày lời luận tội đối với các bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo T và bị cáo L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo T từ 30 tháng đến 36 tháng tù.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo L từ 12 tháng đến 18 tháng tù.

- Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 xe mô tô Wave, màu sơn xanh - đen - bạc, số khung 3927LY037852, số máy JA39E2040096, biển số 35B2-825.07 giấy đăng ký xe mô tô mang tên Lê Thanh T; 01 điện thoại động Nokia 1280 vỏ màu đen. Tịch thu tiêu hủy 01 hộp nhựa hình chữ nhật bên trong là bộ kích điện bằng kim loại; 01 chiếc tròng chó bằng kim loại có tổng chiều dài cả dây điện là 1,3 mét, phần cần tròng dài 75 cm, được quấn băng dính màu đên, đầu cần gắn một dây cáp dài 110 cm.

Tại phiên tòa bị cáo T và bị cáo L đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung của Cáo trạng là đúng. Nói lời sau cùng các bị cáo đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi của các bị cáo: Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng; phù hợp với các tài liêu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án về thời gian, hành vi của các bị cáo và tài sản chiếm đoạt, nên có đủ cơ sở khẳng định:

Khoảng 19 giờ 30 ngày 07/03/2021 tại thôn T, xã A; T và L có hành vi dùng chiếc tròng chó quàng phần thòng lọng vào cổ con chó của gia đình anh D chị T1 giật để thòng lòng siết lại, rồi bấm công tắc kích điện làm cho con chó bị tê liệt, nhằm mục đích chiếm đoạt con chó; trong lúc kéo con chó đi, anh D và một số người dân đuổi theo và bắt được T; theo kết luận định giá tài sản, trị giá con chó là 2.231.000 đồng.

Hành vi của bị cáo T và L là trái pháp luật, đã xâm phạm đến tài sản của người khác, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Đối với T đã tái phạm nguy hiểm, chưa được xóa án tích mà lai thực hiện hành vi phạm tôi do cố ý, nên bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm đây là tỉnh tiết tặng nặng định khung theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự; bị cáo L phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

[2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Cả hai bị cáo T và L đều không có tình tiết tăng nặng.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Bị cáo T “Thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

- Bị cáo L “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo” theo quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện YK truy tố bị cáo T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự và bị cáo L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị của Viện kiểm sát về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo là đúng pháp luật.

[5] Căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội, vào nhân thân, vào tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo; cần xử phạt các bị cáo với mức án nghiêm minh, mới có đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục các bị cáo và góp phần đấu tranh phòng ngừa chung.

Tại phiên tòa các bị cáo T và L đều khai không có tài sản gì; nên không phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với T và L [6] Về trách nhiệm dân sự: Vợ chồng anh D chị T1 đã nhận lại con chó và không có yêu cầu gì thêm; nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[7] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Vật chứng đã thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave, màu sơn xanh- đen-bạc, số khung 3927LY037852, số máy JA39E2040096, dung tích xi lanh 109, biển số đăng ký 35B2-825.07 và giấy đăng ký xe mô tô mang tên Lê Thanh T; 01 hộp nhựa hình chữ nhật bề mặt có nhãn mác ghi KIHITA NGUỒN ĐIỆN ĂNG TEN-TV bên trong là bộ kích điện bằng kim loại; 01 chiếc tròng chó; 01 điện thoại động Nokia 1280.

- Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave, màu sơn xanh - đen - bạc, số khung 3927LY037852, số máy JA39E2040096, dung tích xi lanh 109, biển số đăng ký 35B2-825.07 và giấy đăng ký xe mô tô mang tên Lê Thanh T; 01 điện thoại động Nokia 1280 là tài sản của T, đã sử dụng vào việc phạm tội, nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 hộp nhựa hình chữ nhật bề mặt có nhãn mác ghi KIHITA NGUỒN ĐIỆN ĂNG TEN-TV bên trong là bộ kích điện bằng kim loại, 01 chiếc tròng chó, là tài sản của L, đã sử dụng vào việc phạm tội, nên tịch thu tiêu hủy.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo, người bị hại, người làm chứng đều không có ý kiến hoặc khiếu nại gì; nên hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng pháp luật. Tại phiên tòa Kiểm sát viên đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[9] Về án phí: Các bị cáo T và L đều bị xử có tội, nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Lê Thanh T và bị cáo Đinh Trọng L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự

Xử phạt: Lê Thanh T 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 25/03/2021.

3. Căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự Xử phạt: Đinh Trọng L 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn phạt tù tính từ ngày tạm giam 30/03/2021.

4. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave, màu sơn xanh - đen -bạc, số khung 3927LY037852, số máy JA39E2040096, dung tích xi lanh 109, biển số đăng ký 35B2-825.07 và giấy đăng ký xe mô tô mang tên Lê Thanh T do Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Ninh Bình cấp ngày 03/12/2020; 01 điện thoại động Nokia 1280.

- Tịch thu tiêu hủy 01 hộp nhựa hình chữ nhật bề mặt có nhãn mác ghi KIHITA NGUỒN ĐIỆN ĂNG TEN-TV bên trong là bộ kích điện bằng kim loại; 01 chiếc tròng chó.

Vật chứng có đặc điểm tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/4/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện YK với Chi cục Thi hành án dân sự huyện YK.

5. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc các bị cáo Lê Thanh T và Đinh Trọng L, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Đều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 30/2021/HS-ST

Số hiệu:30/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Khánh - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;