Bản án về tội trộm cắp tài sản số 30/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ MỸ HÀO, TỈNH HƯNG YÊN

BẨN ÁN 30/2021/HS-ST NGÀY 25/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25/6/2021, tại trụ sở, Toà án nhân dân thị xã MH mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 30/2021/HSST ngày 28/5/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2021/HSST - QĐ ngày 11/6/2021 đối với bị cáo:

Vũ Xuân M, sinh năm 1989, tại thị xã MH, tỉnh Hưng Yên; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Tổ dân phố NX, phường NH, thị xã MH, tỉnh Hưng Yên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Con bà Vũ Thị M1, sinh năm 1969; Có vợ là Đỗ Thị G, sinh năm 1985 và chưa có con; Tiền án, tiền sự: Không;

Tạm giữ, tạm giam: Không; Được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi  nơi cư trú tại phường NH, thị xã MH, tỉnh Hưng Yên; Có mặt.

Bị hại: Chị Vũ Thị Lệ Q, sinh năm 1997; Địa chỉ: Thôn H, xã LX, huyện  YM, tỉnh Hưng Yên; Vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Vũ Thị M1, sinh năm 1969; Địa chỉ: Tổ dân phố NX, phường NH, thị xã MH, tỉnh Hưng Yên; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ  án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 01/4/2021, Vũ Xuân M đi xe đạp vào trong khu đô thị PT thuộc tổ dân phố NX, phường NH để tập thể dục. Khi M đi đến khu vực quán cà phê Mc thì phát hiện thấy phía trước cửa quán dựng rất nhiều xe mô tô, xung quanh không có người nên M đã nảy sinh ý định trộm cắp xemô tô để bán lấytiền tiêu sài.

Sau đó, M đi xe đạp ra bãi đất trống trong khu đô thị PT giấu chiếc xe đạp vào trong bụi cây rồi M đi bộ quay lại quán cà phê Mc. Đến nơi, M thấy xung quanh quán cà phê không có người, M tiến lại gần phía bên trái chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Airblade, sơn màu xanh đen, biển số đăng ký 30H3-2218 của chị Vũ Thị Lệ Q đang dựng ở ngoài cùng phía bên phải theo hướng nhìn từ ngoài vào cửa quán thấy xe mô tô không khóa cổ, khóa càng. M đi lại gần xe mô tô dùng tay trái cầm vào tay lái bên trái của xe mô tô còn tay phải cầm vào càng phía đuôi xe mô tô rồi dùng lực hai tay lùi xe, quay đầu xe và dắt xe mô tô đi ra ngoài đường. M dắt xe mô tô đi ra bãi đất trống nơi cất giấu chiếc xe đạp lúc trước, M giấu chiếc xe mô tô biển số đăng ký 30H3-2218 vào trong bụi cây rồi lấy chiếc xe đạp nêu trên của M đi về nhà. Đến ngày 03/4/2021 M đã đến Công an thị xã MH đầu thú và tự nguyện giao nộp chiếc xe đạp kiểu mini, sơn màu trắng và 01 đôi dép nhựa màu xanh đều đã qua sử dụng. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã MH đã tiến hành cho M chỉ dẫn đến nơi cất giấu tài sản phạm tội và thực nghiệm điều tra. Vật chứng thu giữ: Thu tại bụi cây ở bãi đất trống trong khu đô thị PT 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Airblade, sơn màu xanh đen biển số đăng ký 30H3-2218.

Cùng ngày, chị Vũ Thị Lệ Q làm đơn trình báo đến Công an thị xã MH.

Ngày 03/4/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã MH tiến hành khám xét chỗ ở của Vũ Xuân M tại tổ dân phố NX, phường NH, thị xã MH, kết quả khám xét: Thu tại phòng ngủ của M 01 chiếc áo sơ mi cộc tay có hình kẻ ca rô nhiều màu, 01 chiếc quần soóc màu trắng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 17/ KL-HĐĐG ngày 05/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng thị xã MH, kết luận: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Airblade, sơn màu xanh đen, biển số đăng ký 30H3-2218 có giá trị  7.000.000 đồng.

Đối với chiếc xe mô tôbiển số đăng ký 30H3-2218 đã thu giữ. Quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của chị Vũ Thị Lệ Q. Ngày 26/4/2021 cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô trên cho chị Q, chị Q đã nhận lại tài sản không có yêu cầu đề nghị gì.

Đối với chiếc xe đạp, 01 chiếc áo, 01 chiếc quần soóc và đôi dép nhựa đã thu giữ của M. Quá trình điều tra xác định chiếc xe đạp trên là của bà Vũ Thị M1 (là mẹ đẻ của M), M mượn bà M1 để đi làm, bà M1 không biết M sử dụng chiếc xe đạp trên để đi trộm cắp tài sản. Ngày 24/5/2021 cơ quan điều tra đã trả lại cho bà M1, bà M1 đã nhận lại tài sản không có yêu cầu đề nghị gì. Còn đối với bộ quần áo và đôi dép nêu trên là trang phục M mặc để đi trộm cắp tài sản. Đến nay M không có nhu cầu nhận lại các trang phục nêu trên.

Quá trình điều tra Vũ Xuân M đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 32/CT-VKSMH ngày 27/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã MH truy tố bị cáo Vũ Xuân M về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên tòa:

+ Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã MH giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 và khoản 2 Điều 65 BLHS; điểm c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án; Xử phạt: Bị cáoVũ Xuân M từ 09 tháng tù đến 01 năm tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm 06 tháng đến 02 năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 25/6/2021; Giao bị cáo Vũ Xuân M cho Uỷ ban nhân dân phường NH, thị xã MH, tỉnh Hưng Yên giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban nhân dân phường NH trong việc giám sát, giáo dục bị cáo Vũ Xuân M; Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều  92 của Luật thi hành án hình sự; Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo; Tịch thu, cho tiêu hủy 01 chiếc áo sơ mi cộc tay có hình kẻ ca rô nhiều màu; 01 chiếc quần sooc và 01 đôi dép nhựa màu xanh; Bị cáo Vũ Xuân M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong  quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra và phù hợp khách quan với biên bản, sơ đồ, bản ảnh thực nghiệm; biên bản khám nghiệm, sơ đồ, bản ảnh hiện trường; đơn trình báo và lời khai của bị hại là chị Vũ Thị Lệ Q; lời khai của người làm chứng là các chị Huỳnh Diệu Hoa và Chu Thị Bình; vật chứng đã thu giữ, kết luận định giá tài sản,  cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ căn cứ xác định: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 01/4/2021, tại quán cà phê Mc, trong khu đô thị PT, thuộc tổ dân phố NX, phường NH, thị xã MH, tỉnh Hưng Yên, Vũ Xuân M lợi dụng chủ sở hữu tài sản là chị Vũ Thị Lệ Q ngồi chơi cùng các bạn trong quán, còn chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Airblade BKS 30H3-2218 dựng ngoài quán, không có người trông coi, M đã lén lút chiếm đoạt chiếc xe này của chị Q, sau đó đem cất giấu tại khu đất trống gần đó. Theo kết luận của Hội đồng định giá thì tài sản bị cáo chiếm đoạt của chị Q có giá trị là 7.000.000 đồng. Đến ngày 03/4/2021, M đến Công an thị xã MH đầu thú.

[3] Vũ Xuân M lợi dụng chủ sở hữu sơ hở, không có biện pháp trông giữ để lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại đã thoả mãn đầy đủ dấu hiệu cấu thành tội Trộm cắp tài sản. Tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị dưới 50.000.000 đồng, nên Viện kiểm sát nhân dân thị xã MH truy tố bị cáo Vũ Xuân M về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Bị cáo chiếm đoạt tài sản của chị Q không chỉ gây ra tâm lý lo lắng cho bị hại, mà còn ảnh hưởng xấu tới trật tự, an toàn xã hội tại địa phương, gây bức xúc, bị quần chúng nhân dân lên án mạnh mẽ, nên cần áp dụng hình phạt nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo ý thức tuân thủ pháp luât, cũng như đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống loại tội phạm này tại địa phương..

[5] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét cho đến trước khi bị đưa ra xét xử, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự và hành vi phạm tội lần này của bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi lấy được tài sản, trong một thời gian ngắn, đã ra đầu thú; khai báo thành khẩn, có thái độ ăn năn hối hận về hành vi phạm tội; tài sản bị chiếm đoạt đã thu hồi trả bị hại, hành vi chiếm đoạt của M chưa gây ra thiệt hại cho chủ sở hữu. Cho nên, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm h, i, s khoản 1 và khoản 2  Điều 51 BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Bị cáo phạm tội nhưng được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng, nên không cần thiết cách ly khỏi xã hội, mà cho cải tạo tại địa phương dưới sự giám sát của chính quyền địa phương và gia đình cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo ý thức rèn luyện, tu dưỡng, phấn đấu trở thành người lao động có ích cho gia đình và xã hội.

[7] Bị cáo không có công việc ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Tài sản bị cáo chiếm đoạt đã thu hồi trả lại cho bị hại, đồng thời bị hại  không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm, nên phần trách nhiệm dân sự không đặt ra giải quyết.

[9] Các tài sản gồm áo sơ mi cộc tay, quần sooc, đôi dép thu giữ của bị cáo, tuy không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng bị cáo không yêu cầu nhận lại, nên tịch thu, cho tiêu hủy.

[10] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Xuân M phạm tội Trộm cắp tài sản;

2. Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 và khoản 2 Điều 65 Bộ luật Hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

3. Xử phạt: Bị cáoVũ Xuân M 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm  25/6/2021;

4. Giao bị cáo Vũ Xuân M cho Uỷ ban nhân dân phường NH, thị xã MH, tỉnh Hưng Yên giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban nhân dân phường NH trong việc giám sát, giáo dục bị cáo Vũ Xuân M;

5. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự;

6. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa  vụ 02 lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo;

7. Tịch thu, cho tiêu hủy 01 chiếc áo sơ mi cộc tay có hình kẻ ca rô nhiều màu; 01 chiếc quần sooc và 01 đôi dép nhựa màu xanh;

8. Án phí: Bị cáo Vũ Xuân M phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng)  án phí hình sự sơ thẩm;

9. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 30/2021/HS-ST

Số hiệu:30/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Mỹ Hào - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;