TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ AN NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 30/2021/HS-ST NGÀY 06/07/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 06 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 36/2021/TLST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2021/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 6 năm 2021, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn Th, sinh ngày 09/9/1999 tại An Nhơn, Bình Định; Nơi cư trú: thôn N, xã T , thị xã A , tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyên Văn H, sinh năm 1971 và bà Nguyên Thi T, sinh năm 1973; Vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ khẩn cấp ngày 28/01/2021 chuyển tạm giam ngày 03/02/2021 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thị xã An Nhơn . Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Vợ chồng ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1970, bà Lê Thị P, sinh năm 1971; địa chỉ: thôn N, xã T, thị xã A, tỉnh Bình Định, có đơn đề nghị xét xử vụ án vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Vợ chồng ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1971, bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1973; địa chỉ: thôn N, xã T, thị xã A, tỉnh Bình Định, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giơ 30 phút ngày 25/01/2021, Nguyên Văn Th nhìn thây xe mô tô biên kiêm soat (BKS) 77F5-7311 (của ông Nguyên Văn T , sinh năm 1970 ở cạnh nhà Th) dưng phía trước nhà ông T nên nay sin h y đinh chiêm đoat xe mô tô nay . Nguyên Văn Th vào nhà của mình lấy 01 tuôc nơ vit đi đên thao măt na trươc mơ hê thông khơi đông xe mô tô rôi lăp mặt nạ lại. Nguyên Văn Th vê nha cât tuôc nơ vit rôi quay lại khởi động xe mô tô. Bà Nguyên Thi T (là mẹ của Th) phát hiện sự việc đã chạy đến năm lây khung nâng yên phia sau xe mô tô giư lai nhưng Nguyên Văn Th vân tăng ga bỏ chạy . Nguyên Văn Th điêu khiên xe chay môt đoan thi bị ông Tánh phát hiện hô hoán, Nguyên Văn Th tiêp tuc tăng ga bỏ chạy về hướng cầu Bà Di rồi chạy đến địa phân tinh Phu Yên. Tại Phú Yên, Nguyễn Văn Th bán xe mô tô này cho một người đàn ông (không ro ho, tên, đia chi cụ thể) vơi sô tiên 3.000.000đ.
Ngày 29/01/2021 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã An Nhơn kêt luân: xe mô tô BKS 77F5-7311 tại thời điểm bị chiếm đoạt trị giá 6.000.000 đông Tại bản Cáo trạng số 22/CT-VKSAN ngày 14 tháng 5 năm 2021, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã An Nhơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Th về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Bị cáo Nguyễn Văn Th khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã tự nguyện bồi thường thiệt hại và không yêu cầu bị cáo có nghĩa vụ hoàn trả số tiền đã bồi thường.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã An Nhơn giữ nguyên cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh, về điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th từ 6 đến 9 tháng tù.
- Về trách nhiệm dân sự: Ông Nguyên Văn H và bà Nguyên Thi T (là cha mẹ của bị cáo Nguyên Văn Th) đa bôi thương cho vơ chông ông Nguyên Văn T giá trị xe máy bị chiếm đoạt 6.000.000đ, bị hại không có yêu cầu gì thêm.
- Xử lý vật chứng:
+ 01 xe mô tô BKS 77F5-7311, Cơ quan CSĐT Công an thi xa An Nhơn đa tiên hành truy tìm nhưng không có kết quả;
+ 01 đăng ky mô tô , xe may sô A 0068795 của xe mô tô biển kiểm soá t 77F5- 7311 mang tên Lê Văn C. Cơ quan điêu tra đa tra lai cho chu sơ hưu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã An Nhơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Nhơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định pháp luật.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Th khai nhận hành vi phạm tội. Lời khai tại phiên tòa của bị cáo phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra; phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nên có đủ căn cứ xác định: Khoảng 10 giơ 30 phút ngày 25/01/2021, Nguyễn Văn Th lợi dụng sự sơ hở của của ông Nguyên Văn T đa len lut chiêm đoat 01 xe mô tô 77F5-7311 có tr ị giá là 6.000.000 đồng. Hành vi của Nguyễn Văn Th đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội nên cần thiết phải xử lý bằng pháp luật hình sự.
[3] Theo kết luận giám định pháp y tâm thần số 346/KLGĐ ngày 13/4/2021 của Trung tâm phap y tâm thân khu vưc Miên Trung : Trước thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội và hiện tại, bị cáo Nguyễn Văn Th bị rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng cỏ Mỹ (XLR-11), trạng thái hỗn hợp (F19.56), hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi. Nhưng bị cáo Nguyễn Văn Th không thuộc tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 21 Bộ luật hình sự. Do đó, bị cáo Nguyễn Văn Th vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trong; thành khẩn khai báo được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho người bị hại, bị cáo bị hạn chế về khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi nên còn được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã thỏa thuận bồi thường xong. [6] Về xử lý vật chứng:
+ 01 xe mô tô BKS 77F5-7311, Cơ quan CSĐT Công an thi xa An Nhơn đa tiên hành truy tìm nhưng chưa có kết quả;
+ 01 đăng ky mô tô , xe may sô A 0068795 của xe mô tô biển kiểm soát 77F5- 7311 mang tên Lê Văn C, Cơ quan điêu tra đa tra lai cho chu sơ hưu.
[7] Nguyên Văn Th còn có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô biển kiểm soát 78H5- 2969 vào ngày 26/01/2021 trên đia ban tinh Phu Yên , trị giá xe mô tô bị chiếm đoạt 1.800.000 đông. Cơ quan CSĐT Công an huyên Đông Hoa đã ra quyêt đinh xư phat vi phạm hành chính hành vi của Nguyễn Văn Th và đã trả lại xe mô tô cho chủ sở hữu.
[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, bị cáo Nguyễn Văn Th phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Th phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/01/2021.
* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã thỏa thuận bồi thường xong.
* Về xử lý vật chứng:
+ 01 xe mô tô BKS 77F5-7311, Cơ quan CSĐT Công an thi xa An Nhơn đa t iên hành truy tìm nhưng chưa có kết quả;
+ 01 đăng ky mô tô , xe may sô A 0068795 của xe mô tô biển kiểm soá t 77F5- 7311 mang tên Lê Văn C. Cơ quan điêu tra đa tra lai cho chu sơ hưu.
* Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn Th phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
* Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
"Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 30/2021/HS-ST
Số hiệu: | 30/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã An Nhơn - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/07/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về