TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THƯỜNG XUÂN, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 30/2021/HSST NGÀY 20/08/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 20 tháng 8 năm 2021 tại Tòa án nhân dân huyện Thường Xuân xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 28/2021/HSST ngày 20/7/2021; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2021/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:
Lê Doãn B, sinh năm: 1986, tại xã T1, huyện Thường Xuân; Nơi ĐKHKTT: Thôn 2, xã T1, huyện TX, tỉnh Thanh Hóa. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; con ông: Lê Doãn C và bà: Lê Thị T; có vợ Cầm Thị Â; có 02 con. Tiền sự: Chưa Tiền án: Năm 2019 bị Tòa án nhân dân huyện TX, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 07 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 14 (mười bốn) tháng về tội Trộm cắp tài sản, tại Bản án số 31/2019/HSST ngày 26/11/2019; chấp hành xong hình phạt tù cho hưởng án treo nhưng chưa được xóa án tích.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 17/6/2021 đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa (có mặt tại phiên tòa).
+ BỊ HẠI:
Anh Lê Hữu Q, sinh năm: 1974 Trú tại: Thôn 1, xã T1, huyện TX, tỉnh Thanh Hoá (đề nghị xét xử vắng mặt).
+ NGƯỜI LÀM CHỨNG:
Anh Nguyễn Văn H, sinh năm: 1998 (có mặt);
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 17/5/2021, Lê Doãn B, sinh năm 1986, trú tại thôn 2, xã T1, huyện TX, tỉnh Thanh Hóa, đi đến nhà Nguyễn Văn H, sinh năm: 1998, trú tại thôn TL, xã T1, huyện Thường Xuân để mượn xe máy điện và rủ H đi trộm cắp tài sản. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, Nguyễn Văn H sử dụng xe máy điện BKS 36MB8- 405.30 của chị Bùi Thị H, sinh năm 1999 (là vợ của H) chở Lê Doãn B vào khu trung tâm xã T1. Khi đi đến đoạn đường thuộc địa phận thôn 1, xã T1, huyện Thường Xuân, Lê Doãn B và Nguyễn Văn H quan sát thấy tại sân của gia đình anh Lê Hữu Q, sinh năm 1974, trú tại thôn 1, xã T1, huyện Thường Xuân đang để 01 bì lúa. Lúc này B và H nảy sinh ý định trộm cắp nên đã quay xe lại cổng nhà anh Q. Sau khi quan sát thấy không có người Lê Doãn B đi vào sân nhà anh Q ôm bì lúa chạy ra ngoài để lên xe máy điện mà Nguyễn Văn H đang chờ sẵn rồi cả hai điều khiển xe đi theo hướng từ xã T1 đến thị trấn Thường Xuân nhằm mục đích bán bì lúa lấy tiền tiêu sài. Cùng lúc đó có cháu Lê Khánh L, sinh năm 2006 là con gái anh Lê Hữu Q đang ngồi học trong phòng khách thấy có người vào trộm lúa và đem ra xe chở đi, nên gọi cho anh Q ra cổng nhìn thấy và lấy xe máy đuổi theo, đến đoạn rẽ vào xã XD, huyện Thường Xuân thì đuổi kịp nên yêu cầu B và H dừng lại. Anh Q báo cáo lên Công an xã T1 để giải quyết.
Tại kết luận định giá số 15 KL/ĐGTS ngày 15/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thường Xuân, kết luận: 01 (một) bì lúa có trọng lượng 45 kg, (loại bì xác rắn 50 kg) màu đỏ có giá trị là 405.000đ (bốn trăm linh năm nghìn đồng).
Đối với Nguyễn Văn H, quá trình điều tra H đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình, H đã tham gia trộm cắp cùng với Lê Doãn B. Tuy nhiên giá trị tài sản trộm cắp chưa đủ định lượng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Văn H nên Cơ quan điều tra Công an huyện TX ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với H là phù hợp.
Về vật chứng: 01 xe mô tô điện biển số 36MB8 - 405.30 màu đen xác định là xe chị Bùi Thị H, ở thôn TL, xã T1, huyện Thường Xuân, quá trình xác minh chị H không biết việc B và H sử dụng xe máy điện để trộm cắp tài sản, Công an xã T1 đã trả lại cho chị H; 01 bì lúa tổng trọng lượng là 45kg đã trả lại cho anh Lê Hữu Q, anh Q không yêu cầu B và H bồi thường gì thêm.
Tại bản cáo trạng số 33/CT- VKSTX ngày 19/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thường Xuân truy tố Lê Doãn B về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1, 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của Lê Doãn B phạm tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Lê Doãn B từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/6/2021.
Hình phạt bổ sung: Bị cáo không có việc làm, thu nhập gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
Bị cáo nhận tội và không có tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.
Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, khách quan và toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thường Xuân, Điều tra viên, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Thường Xuân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lê Doãn B không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng, người tiến hành tố tụng đã tiến hành đều hợp pháp.
Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân đã truy tố.
Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Ngày 17/5/2021, Lê Doãn B và Nguyễn Văn H đã trộm cắp 01 bì lúa có trọng lượng 45 kg, giá trị 405.000 đồng của anh Lê Hữu Q, ở thôn 1, xã T1, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hoá.
[2]. Xét tính chất vụ án: Đây là vụ án thuộc trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng. Tuy nhiên hành vi phạm tội của bị cáo đã vi phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương nên cần phải xử lý nghiêm để giáo dục và phòng ngừa chung.
[3]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo Lê Doãn B đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu tài sản trong việc quản lý tài sản đã lén lút trộm cắp đã trộm cắp 01 bì lúa của anh Lê Hữu Q, có trọng lượng 45kg. Theo kết luận định giá số 15/KL/ĐGTS ngày 15/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thường Xuân, kết luận: 01 bì lúa có trọng lượng 45 kg, giá trị 405.000đ (bốn trăm linh năm nghìn đồng). Hành vi phạm tội của bị cáo đã cấu thành đầy đủ tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do đó Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Thường Xuân truy tố Lê Doãn B về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là chính xác và có cơ sở. Hội đồng xét xử áp dụng các quy định của pháp luật tuyên phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương ứng với tính chất của vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo.
[4]. Xét về nhân thân: Lê Doãn B là đối tượng có 01 tiền án, Năm 2019 bị Tòa án nhân dân huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 07 (bảy) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 14 (mười bốn) tháng về tội Trộm cắp tài sản, tại Bản án số 31/2019/HSST ngày 26/11/2019, tháng 01/2021 chấp hành xong hình phạt tù, cho hưởng án treo, nhưng chưa được xóa án tích. Bị cáo không chịu tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, thể hiện sự coi thường pháp luật nên phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Bị cáo đã áp dụng tình tiết định tội nên không phải chịu tình tiết tăng nặng.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, bị hại anh Lê Hữu Q đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm, nên xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật.
[5]. Xét tính chất vụ án; hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo trên cơ sở xem xét đầy đủ tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng Điều 38 Bộ luật hình sự tuyên phạt Lê Doãn B một mức án nhất định, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội, thời hạn tạm giam của bị cáo được trừ vào thời gian chấp hành án. Áp dụng Điều 329 Bộ Luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có việc làm, thu nhập gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
Lời nói sau cùng của bị cáo Lê Doãn B: Xin giảm nhẹ hình phạt.
[6]. Về phần trách nhiệm dân sự: Người bị hại không có yêu cầu gì nên miễn xét. [7]. Về án phí: Bị cáo Lê Doãn B phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tuyên bố: Lê Doãn B phạm tội “Trộm cắp tài sản”;
Xử phạt: Lê Doãn B 08 (tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/6/2021, tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung.
Về bồi thường dân sự: Bị hại không có yêu cầu gì nên miễn xét.
Về án phí: Căn cứ Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”. Buộc Lê Doãn B phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.
Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ Luật tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (20/8/2021);
Người bị hại anh Lê Hữu Quân được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 30/2021/HSST
Số hiệu: | 30/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thường Xuân - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/08/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về