Bản án về tội trộm cắp tài sản số 29/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦN GIUỘC – TỈNH LONG AN

BN ÁN 29/2023/HS-ST NGÀY 16/03/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 3 năm 2023 tại Trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 21/2023/TLST-HS ngày 23 tháng 02 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2023/QĐXXST-HS, ngày 03 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Hoàng T, sinh năm: 1986.

Nơi thường trú: ấp Ngoài, xã P, huyện CG, tỉnh L; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Tấn H và bà Ngô Thị B; Bản thân chưa có vợ, con; Tiền án: Bản án số 107/2020/HSST, ngày 28/01/2020, của Tòa án nhân dân huyện CG, tỉnh L xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 21/3/2021; Tiền sự: không; Nhân thân: Bản án số: 313/2015/HSST ngày 29/12/2015, của Tòa án nhân dân Quận 8, Tp. H, xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 22/12/2022 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Trần Nhựt Ch, sinh năm: 1976 (vắng mặt).

Cư trú: ấp Trong, xã P, huyện CG, tỉnh L.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Nguyễn Thị Hồng Ng, sinh năm: 1986 (có mặt).

Cư trú: Ấp 5, xã Hưng Long, huyện Bình Ch, Tp. H.

Người m chứng:

1/ Nguyễn Thanh Việt, sinh năm: 1998 (vắng mặt).

Cư trú: ấp Trong, xã P, huyện CG, tỉnh L.

2/ Nguyễn Văn Tài, sinh năm: 1996 (vắng mặt) Cư trú: ấp Trong, xã P, huyện CG, tỉnh L.

3/ Nguyễn Hồng Sơn, sinh năm: 1997 (vắng mặt).

Cư trú: ấp Trong, xã P, huyện CG, tỉnh L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và qua quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 17/12/2022, Nguyễn Hoàng T là người có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, đang chơi hội chợ cùng bạn gái tên Nguyễn Thị Hồng Ng tại ấp Phước Hưng 1, xã PL, huyện CG thì nảy sinh ý định đi tìm tài sản trộm bán lấy tiền tiêu xài. Đến khoảng 21 giờ 15 phút cùng ngày, T một mình điều khiển xe mô tô biển số 53R3-56X đến đường giao thông nông thôn thuộc ấp Trong, xã P, huyện CG. Tại đây, T phát hiện kho chứa dụng cụ xây dựng của anh Trần Nhựt Ch không có người trông coi, nên đi bộ vào trong kho lấy 02 khung giàn giáo bằng kim loại, chiều cao 180cm, chiều rộng 130cm, tổng trọng lượng 24kg. Sau đó, T vác 02 khung giàn giáo trên vai trái rồi dùng tay phải điều khiển xe tẩu thoát. Khi đến khu vực ngã tư đường bờ Hủ Tiếu và đường P-PL-LT thuộc ấp Trong, xã P thì bị người dân phát hiện T có biểu hiện nghi vấn nên chặn xe lại và trình báo cơ quan Công an. Tại cơ quan Công an, T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Kết luận định giá tài sản số 02/KL-HĐĐGTS ngày 21/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện CG, xác định: 02 (hai) khung giàn giáo bằng kim loại, chiều cao 180cm, chiều rộng 130cm, tổng trọng lượng 24kg, giá trị tài sản là 183.300 đồng.

Tại Bản cáo trạng số 27/CT-VKSCG ngày 22/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CG truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như Bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Nguyễn Hoàng T từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Về tang vật: Cơ quan Cảnh sát điều tra tạm giữ và hoàn trả: 02 (hai) khung giàn giáo bằng kim loại, tổng trọng lượng 24kg cho chủ sở hữu anh Ch và 01 (một) xe mô tô biển số 53R3-56X cho chủ sở hữu chị Ng, là phù hợp.

Về dân sự: bị hại anh Ch và Ng đã nhận lại tài sản, hiện không yêu cầu.

Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng là xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện CG, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện CG, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 17/12/2022, tại kho chứa dụng cụ xây dựng của anh Ch thuộc ấp Trong, xã P, huyện CG, bị cáo T đã lén lút thực hiện hành vi lấy trộm 02 (hai) khung giàn giáo bằng kim loại, chiều cao 180cm, chiều rộng 130cm, tổng trọng lượng 24kg của anh Ch. Theo Kết luận định giá tài sản số 02/KL-HĐĐGTS ngày 21/12/2022, xác định giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 183.300 đồng. Mặc dù giá trị sản bị cáo chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng, nhưng bị cáo có một tiền án vào ngày 28/10/2020, bị Tòa án nhân dân huyện CG, tỉnh L xử phạt 08 (tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, theo nội dung bản án số 107/2020/HSST, chấp hành xong ngày 21/3/2021, chưa xóa án tích, thì ngày 17/12/2022 bị cáo lại thực hiện hành vi phạm tội. Nên hành vi của bị cáo vẫn cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an toàn xã hội, gây mất an ninh trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi lén lút lấy trộm tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Do đó hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử lý thỏa đáng mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự: không.

[5] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo, xét thấy áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo cũng đủ giáo dục và răn đe nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[7] Về tang vật thu giữ: Cơ quan CSĐT Công an huyện CG đã tạm giữ và hoàn trả cho: anh Trần Nhựt Ch 02 (hai) khung giàn giáo bằng kim loại, chiều cao 180cm, chiều rộng 130cm, tổng trọng lượng 24kg. Hoàn trả cho chị Nguyễn Thị Hồng Ng 01 (một) xe mô tô biển số 53R3-56X do là tài sản hợp pháp của chị Ng, việc bị cáo dùng xe mô tô làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội, chị Ng không biết. Xét thấy là phù hợp với quy định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Về trách nhiệm dân sự: tại phiên tòa người bị hại anh Ch vắng mặt, nhưng theo hồ sơ thể hiện anh Ch không yêu cầu (bút lục số 72-73), nên không xem xét. Chị Ng tại phiên tòa không có yêu cầu gì, nên cũng không xem xét.

[9] Về án phí: bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Hoàng T 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 22/12/2022.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án (16/3/2023) để đảm bảo việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.

Về án phí: bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 29/2023/HS-ST

Số hiệu:29/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Giuộc - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;