Bản án 284/2024/HS-PT về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 284/2024/HS-PT NGÀY 05/04/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 4 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm, Toà án nhân dân thành phố H xét xử công khai trực tuyến vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 288/2024/TLPT-HS ngày 13 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo Nguyễn Quý C và Nguyễn Công T do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quý C và Nguyễn Công T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2024/HS-ST ngày 02 tháng 02 năm 2024 của Tòa án nhân dân quận G, thành phố H.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Quý C, sinh năm xxxx; Giới tính: nam; Nơi ở: Thôn Xuân D, xã K L, huyện S S, H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 08/12; Con ông: Nguyễn Quý Đ, sinh năm 1975; Con bà: Nguyễn Thị H (đã chết); Vợ: Trần Thanh H1, sinh năm 1996; Có 02 con, lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2020;

Tiền án, tiền sự:

Ngày 12/4/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Y P, B N xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ra trại ngày 23/6/2018.

Ngày 22/9/2022, bị Tòa án nhân dân huyện S S, H xử phạt 12 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” và 11 tháng 02 ngày tù về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 22/9/2022.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 31/10/2023; Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an TP H. Có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Công T, sinh ngày 15/6/1994; Giới tính: nam; Nơi ở: Thôn Xuân D, xã K L, huyện S S, H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 09/12; Con ông: Nguyễn Công Q, sinh năm 1971; Con bà: Nguyễn Thị L, sinh năm 1972; Vợ: Lương Thị P, sinh năm xxxx; Có 01 con, sinh năm 2017;

Tiền án, tiền sự:

Ngày 18/6/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Đ A, H xử phạt 18 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 78/2013/HSST ngày 14/5/2013 của Tòa án nhân dân huyện S S, H và 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 145/2012/HSST ngày 18/12/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh H Y. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho ba bản án là 42 tháng tù. Ra trại ngày 12/7/2016.

Ngày 29/6/2018, bị Tòa án nhân dân quận H B T, H xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ra trại ngày 30/10/2019.

Ngày 26/11/2020 bị Tòa án nhân dân quận G, H xử 36 tháng tù về tội:

Trộm cắp tài sản”. Ra trại ngày 10/12/2022.

Nhân thân:

Ngày 25/5/2009, Công an thành phố B N, tỉnh B N phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản.

Ngày 18/10/2012, bị Tòa án nhân dân tỉnh H Y xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi) Ngày 14/5/2013, bị Tòa án nhân dân huyện S S, H xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi) Bị cáo bị bắt quả tang ngày 31/10/2023; Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an TP H.

Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại không kháng cáo: Anh Lê Duy K, sinh năm 2003; Trú tại: Tổ 6, Hùng Vương, thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do thiếu tiền chi tiêu cá nhân nên Nguyễn Quý C đã nảy sinh ý định đi trộm cắp xe máy tại khu vực trung tâm thành phố H. Khoảng 21 giờ ngày 31/10/2023, C ở nhà tại Thôn Xuân D, K L, S S, H nhắn tin từ số điện thoại 097736xxxx của C rủ Nguyễn Công T đi trộm cắp xe máy, T đồng ý. C bảo T mang theo vam phá khóa và tay công rồi đi xe máy đến khu vực đường đê của thôn Xuân D đón C. Khi đi T mang theo 01 bình xịt hơi cay, 01 tay công kim loại, 04 đầu vam phá khóa. T đi xe máy Honda Wave, BKS: 29L5-xxxxx màu đen ra điểm hẹn gặp C. C mang theo 01 bình xịt hơi cay cất vào trong túi quần. Tại đây, cả hai thống nhất: C sẽ là người điều khiển xe máy và cảnh giới còn T là người trực tiếp vào lấy xe. C chở T đi từ khu vực đường đê của thôn Xuân D đến đường Võ Nguyên G rồi đi qua cầu N T sang đường Võ Chí C rồi rẽ vào đường Hoàng Quốc V sau đó đi đến khu vực phường N T. Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 31/10/2023, C chở T đến trước cửa số nhà 104 A14 N T, C G, H thì phát hiện thấy có 01 chiếc xe máy Honda Wave, màu trắng, BKS: 29B2-xxxxx của anh Lê Duy K (SN: 2003; HKTT: Tổ 6 Hùng Vương, thành phố P Y, tỉnh V P) đang dựng trước cửa nhà, đầu xe hướng vào phía cửa nhà, đuôi xe hướng ra đường, xe không có người trông giữ. C chở T đi qua chiếc xe trên, cách khoảng 5-10m thì dừng xe lại đứng cảnh giới, T đi lại gần chiếc xe dùng vam phá khóa, đấu điện nổ máy xe, đi được khoảng 5m thì bị người dân xung quanh và lực lượng công an phát hiện, đuổi theo bắt giữ. Thấy T bị phát hiện C cũng phóng xe bỏ chạy được khoảng 5-10m thì cũng bị lực lượng công an và người dân xung quanh bắt giữ. Sau đó, cơ quan công an đã T hành lập biên bản rồi đưa C và T về trụ sở để làm rõ.

Cơ quan Công an đã thu giữ của Nguyễn Công T: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng bạc, BKS: 29B2-xxxxx, số khung: RLHJA3920PY519665, số máy: JA39E3152164 là xe máy của anh K, 01 bình xịt hơi cay, 01 tay công bằng kim loại, 04 đầu vam khóa, 01 cục sắt; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen.

Thu giữ của Nguyễn Quý C: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đen BKS: 29L5-xxxxx, 01 bình hình trụ tròn có thân bình màu xanh nắp màu đen có chiều dài 15 cm; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax màu vàng (tình trạng vỡ kính mặt trước và mặt sau).

Kết luận định giá tài sản số 446/KL-HĐĐGTS ngày 01/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận G kết luận: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu trắng bạc BKS: 29B2-xxxxx, số khung: RLHJA3920PY519665, số máy: JA39E3152164 có giá: 17.850.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Quý C, Nguyễn Công T khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên. Lời khai của Nguyễn Quý C, Nguyễn Công T, phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại, kết luận định giá tài sản, kết quả kiểm tra camera và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Cáo trạng số 19/CT-VKSCG ngày 15/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân quận G, thành phố H truy tố bị cáo Nguyễn Quý C và Nguyễn Công T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS.

Bản án Hình sự sơ thẩm số 33/2024/HSST ngày 02/02/2024 của Tòa án nhân dân quận G, thành phố H đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quý C và Nguyễn Công T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt:

Nguyễn Quý C 40 (bốn mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/10/2023. Nguyễn Công T 40 (bốn mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/10/2023. Ngoài ra bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo. Ngày 05/02/2024, bị cáo Nguyễn Công T kháng cáo; Ngày 16/02/2024, bị cáo Nguyễn Quý C kháng cáo. Cả hai bị cáo đều cho rằng mức án mà cấp sơ thẩm đã tuyên là quá nặng và xin Tòa án cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm hai bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H sau khi đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đề nghị: Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 33/2024/HSST ngày 02/02/2024 của Tòa án nhân dân quận G, thành phố H; giảm một phần hình phạt cho các bị cáo.

Áp dụng: Điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt:

Nguyễn Quý C và Nguyễn Công T mức hình phạt từ 30 tháng đến 33 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/10/2023.

Lời nói sau cùng bị cáo Nguyễn Quý C và Nguyễn Công T thể hiện thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và mong nhận được sự khoan hồng của pháp luật, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hình thức kháng cáo: Đơn kháng cáo của các bị cáo đúng về mặt chủ thể kháng cáo và trong thời hạn của luật định nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung:

Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo trình bày lời khai như đã trình bày tại cơ quan điều tra và phiên tòa sơ thẩm. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai bị hại, người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đủ cơ sở kết luận:

Ngày 31/10/2023, Nguyễn Quý C và Nguyễn Công T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc xe máy Honda Wave màu trắng bạc BKS 29B2-xxxxx của anh Lê Duy K tại trước cửa số nhà 101- A14 Nghĩa Tân, C G, H. Theo kết luận định giá chiếc xe máy có giá trị 17.850.000 (Mười bảy triệu tám trăm năm mươi nghìn) đồng.

Với hành vi phạm tội như trên bị cáo Nguyễn Quý C và Nguyễn Công T bị Tòa án nhân dân quận G, thành phố H xử phạt về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quý C và bị cáo Nguyễn Công T, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội.

Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo là người đủ năng lực trách nhiệm hình sự đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình. Hội đồng xét xử sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo là có căn cứ.

Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự; căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:

Hai bị cáo đều có nhân thân xấu, nhiều tiền án. Lần phạm tội này của cả hai bị cáo thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”. Đây là tình tiết định khung hình phạt theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Xét thấy, tình tiết tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt. Hai bị cáo phạm tội là đồng phạm giản đơn. Hành vi phạm tội đã được phát hiện kịp thời, tài sản đã được thu hồi trả lại cho chủ sở hữu. Giá trị tài sản không lớn. Do vậy, mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là có phần nghiêm khắc so với hành vi phạm tội của các bị cáo.

Do vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt để các bị cáo yên tâm cải tạo thành công dân biết chấp hành pháp luật và cũng thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với các bị cáo biết ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình.

Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quý C và bị cáo Nguyễn Công T. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2024/HSST ngày 02/02/2024 của Tòa án nhân dân quận G, thành phố H về hình phạt đối với bị cáo C và bị cáo T.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Kháng cáo của các bị cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo kháng nghị.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm b khoản 1 Điều 355; Điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quý C và bị cáo Nguyễn Công T. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 33/2024/HSST ngày 02/02/2024 của Tòa án nhân dân quận G, thành phố H về phần hình phạt.

Áp dụng: Điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quý C và bị cáo Nguyễn Công T phạm tội “trộm cắp tài sản”.

Xử phạt:

Nguyễn Quý C 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/10/2023.

Nguyễn Công T 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/10/2023.

2. Án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: bị cáo Nguyễn Quý C và bị cáo Nguyễn Công T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 284/2024/HS-PT về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:284/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;