Bản án về tội trộm cắp tài sản số 284/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 284/2022/HS-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số : 259/2022/TLST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2022; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 266/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 6 năm 2022, đối với:

Bị cáo: Nguyễn Công M (Tên gọi khác: không); Sinh năm 1991 tại tỉnh An Giang. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: A188/2, khu phố 1, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Nơi cư trú: Không có nơi cư trú rõ ràng.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Công giáo; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Con ông Nguyễn Doanh T, sinh năm 1965 và bà Lê Thị Cẩm H (đã chết).

Bị cáo chưa có vợ, con;

Tiền án: Ngày 25/12/2020, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự tại bản án số 717/2020/HSST.

Tiền sự: không.

Về nhân thân: Ngày 20/12/2012, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo bản án số 821/2012/HSST.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/3/2022 và chuyển tạm giam ngày 31/3/2022 theo Lệnh tạm giam số 477/LTG-ĐTTH ngày 30/3/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Anh Mai Văn K, sinh năm 2000.

Địa chỉ: Tổ 31, khu phố 5, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Anh K xin vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 22/3/2022, Nguyễn Công M điều khiển xe mô tô biển số 39F3-6572 chở theo anh ruột của M là Nguyễn Công B, sinh năm 1988, thường trú: A188/2, khu phố 1, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai đi từ nhà trọ của B tại khu phố 5, phường T đến dãy trọ thuộc tổ 31, khu phố 5, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai để tìm bạn của M tên X (không rõ nhân thân, lý lịch). Tại đây M nói B chờ ở ngoài xe còn M một mình đi vào dãy trọ.

Khi đi đến phòng trọ của anh Mai Văn K, M thấy cửa phòng trọ không đóng, anh K nằm ngủ trên nền nhà, sát bên người có 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max nên M nảy sinh ý định trộm cắp điện thoại bán lấy tiền tiêu xài.

Thực hiện ý định trên, M đi vào phòng trọ, lén lút lấy trộm chiếc điện thoại và đi ra đến cửa phòng thì bị anh K phát hiện, tri hô nên M cầm điện thoại bỏ chạy ra khỏi dãy trọ. Anh K cùng người dân đuổi theo được khoảng 30 mét thì bắt giữ được M cùng tang vật là chiếc điện thoại di động M vừa trộm cắp. Công an phường T, thành phố Biên Hòa lập hồ sơ ban đầu chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa để giải quyết theo thẩm quyền. Tại cơ quan điều tra, M khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 104/KL-HĐĐGTS ngày 25/3/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Biên Hòa kết luận : Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max loại 64Gb và ốp lưng điện thoại màu nâu có tổng giá trị là 17.810.475 đồng.

Vật chứng vụ án là chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max loại 64Gb, số imei 353902101216570 và ốp lưng điện thoại màu nâu: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Mai Văn K.

Đối với xe mô tô biển số 39F3-6572, số khung 00559 số máy 00305539: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa chưa làm việc được với chủ sở hữu nên tiếp tục tạm giữ để xác minh, xử lý theo quy định.

Về dân sự: Anh Mai Văn K đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bồi thường.

Tại bản Cáo trạng số: 276/CT-VKSBH ngày 06/6/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa truy tố Nguyễn Công M về tội: “Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Công M từ 18 đến 20 tháng tù.

Về vật chứng là chiếc xe mô tô biển số 39F3-6572, số khung 00559 số máy 00305539, đại diện Viện kiểm sát đề nghị để Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa chưa làm việc được với chủ sở hữu nên tiếp tục tạm giữ để xác minh, xử lý theo quy định.

Về dân sự: Anh Mai Văn K đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Quá trình tranh tụng, bị cáo Nguyễn Công M thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội nên không tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Nói lời sau cùng, bị cáo ân hận về hành vi phạm tội của mình, hứa cải tạo trở thành người tốt và mong muốn được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa nêu. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Từ đó, có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 22/3/2022, tại phòng trọ số 04 thuộc tổ 31, khu phố 5, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Công M đã có hành vi lén lút trộm cắp chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max loại 64Gb cùng ốp lưng điện thoại của anh Mai Văn K.

Theo bản kết luận định giá tài sản số 104/KL-HĐĐGTS ngày 25/3/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Biên Hòa, chiếc điện thoại và ốp lưng điện thoại nói trên có tổng giá trị là 17.810.475 đồng.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như truy tố của Viện kiểm sát.

Bị cáo là người có nhân thân xấu, ngày 20/12/2012, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xử phạt 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo bản án số 821/2012/HSST.

Sau khi ra tù, bị cáo tiếp tục phạm tội. Ngày 25/12/2020, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xử phạt 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 717/2020/HSST.

Ngày 07/9/2021 bị cáo chấp hành xong hình phạt. Trong khi chưa được xóa án tích, ngày 22/3/2022, bị cáo lại thực hiện hành vi trộm cắp nên lần phạm tội này được coi là tái phạm. Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy, cần phải có hình phạt nghiêm để trừng trị, cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử cân nhắc tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

[3] Về xử lý vật chứng:

- Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max loại 64Gb, số imei 353902101216570 và ốp lưng điện thoại màu nâu, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho anh Mai Văn K nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với xe mô tô biển số 39F3-6572, số khung 00559 số máy 00305539. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa chưa làm việc được với chủ sở hữu nên tiếp tục tạm giữ để xác minh, xử lý theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại anh Mai Văn K đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Xử phạt bị cáo Nguyễn Công M 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Thời hạn tù tính từ ngày 22/3/2022.

Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Buộc bị cáo Nguyễn Công M phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 284/2022/HS-ST

Số hiệu:284/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;