Bản án về tội trộm cắp tài sản số 27/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ S – TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 27/2022/HS-ST NGÀY 27/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 4 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

Xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2022/TLST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 4 năm 2022, đối với:

- Bị cáo: Trần Đức A - sinh năm 1988.

Nơi ĐKNKTT: Tổ dân phố Vĩnh Thành, phường T, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa; Trình độ học vấn: 9/12. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Bố Trần Đức T (đã chết) và Mẹ Nguyễn Thị N; Bố mẹ bị cáo sinh được 04 người con, bị cáo An là con thứ 4 trong gia đình; chưa có vợ, con; Tiền án: Không;

Tiền sự: Ngày 26/7/2021 bị Công an xã Quảng Lộc, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng, về hành vi trộm cắp tài sản. (Đã nộp phạt xong).

Nhân thân: Ngày 09/9/2013 bị Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng xử phạt 02 năm tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. (Bị cáo đã chấp hành xong).

Tạm giam: Ngày 08/3/2022. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: 1. Anh Phạm Văn T – sinh năm 1985. Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn Kênh Lâm, xã Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa

2. Chị Lường Thị K – sinh năm 1969. Vắng mặt Địa chỉ: Tổ dân phố T, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Dư Thị T - sinh năm 1975. Địa chỉ: Thôn 1, xã Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

- Người làm chứng: 1. Anh Phạm Văn S – sinh năm 1991.

Địa chỉ: Thôn Kênh Lâm, xã Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa

2. Chị Hoàng Thị L – sinh năm 1966.

Địa chỉ: Tổ dân phố Sơn Lợi, phường TS, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

3. Anh Lường Văn R – sinh năm 1970.

Địa chỉ: Tổ dân phó Trung Chính, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

4. Anh Nguyễn Viết K – sinh năm 1971.

Địa chỉ: Tổ dân phó Bình Tân, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa. (Các nhân chứng đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 03/9/2021 và ngày 17/01/2022 Trần Đức A đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 03/9/2021 Trần Đức A điều khiển xe mô tô BKS: 36B2-X loại Wave RSX màu đen, trắng từ nhà ở tổ dân phố Vĩnh Thành, phường T, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa đi dọc theo đường Duyên Hải rồi rẻ vào các xã lân cận để trộm cắp tài sản. Khi đi qua cửa hành bán đồ điện dân dụng “Tý Hiền” của gia đình anh Phạm Văn T, sinh năm 1985 ở thôn Kênh Lâm, xã Q, thành phố S thấy không có ai trông coi, Trần Đức A dựng xe bên ngoài rồi đột nhập vào gian bán hàng lấy trộm 01 cuộn dây điện nhãn hiệu CADIVI màu vàng còn nguyên vẹn, đang để trên kệ ra để ở gác xe rồi nhanh chóng tẩu thoát. Khi về đến xã Quảng Châu, thành phố S thì gặp một người mua phế liệu, nên Trần Đức A đã bán lấy 270.000 đồng tiêu xài cá nhân hết.

Sau khi phát hiện bị mất tài sản, anh Phạm Văn T đuổi theo nhưng không được, nên đã kiểm tra Camera an ninh và trích xuất hình ảnh của đối tượng đến trình báo và giao nộp 01 thẻ nhớ cho Công an xã Q. Đến 11 giờ 20 phút ngày 23/9/2021 tổ công tác Công xã Q phát hiện đối tượng có đặc điểm nhận dạng và phương tiện trùng với hình ảnh mà anh T cung cấp. Công an xã Q đã yêu cầu về trụ sở làm việc, biết không thể chối cải Trần Đức A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Do tài sản không thu giữ được, nên Cơ quan CSĐT Công an thành phố S thu thập tài liệu liên quan để yêu cầu định giá tài sản. Tại kết luận định giá trong tố tụng hình sự số: 63/KL-HĐĐG ngày 05/11/2021 của hội đồng định giá tài sản thành phố S. Kết luận: Giá trị cuộn dây điện tại thời điểm bị mất ngày 03/9/2021 là 1.450.000 đồng.

Từ hình ảnh của anh Phạm Văn T cung cấp. Cơ quan CSĐT Công an thành phố S đã trưng cầu giám định. Tại kết luận giám định số: 3455/PC09 ngày 15/11/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa. Kết luận: Không phát hiện dấu hiệu chỉnh sửa, cắt ghép nội dung hình ảnh của thẻ nhớ gửi giám định.

Vụ thứ hai: Khoảng 08 giờ ngày 17/01/2022 Trần Đức A đi bộ từ nhà ra khu vực phường Q để trộm cắp tài sản. Khi đi đến đường Ngô Quyền thuộc tổ dân phố Trung Chính, phường Q, thành phố S phát hiện 01 xe mô tô BS: 36K4-X loại Wave anpha, màu xanh cùng với chìa khóa của bà Lường Thị K, sinh năm 1969 ở tổ dân phố Trung Chính, phường Q, thành phố S đang dựng ven đường nhưng không thấy có ai trông coi. Trần Đức A đã dùng chìa khóa có sẵn mở khóa điện lấy trộm xe rồi điều khiển đến khu phố Hưng Thông, phường Quảng Thọ, thành phố S vào cửa hàng thu mua sắt vụn của bà Hoàng Thị L, sinh năm 1966 ở phường TS, thành phố S bán cho bà L lấy 500.000 đồng tiêu xài cá nhân hết.

Sau khi phát hiện bị mất tài sản bà Lường Thị K đã đến Công an phường Q trình báo. Nhận được nguồn tin về tội phạm, Công an phường Q đã tiến hành xác định hiện trường, thu thập tài liệu chứng cứ để xác định đối tượng. Qua kiểm tra camera an ninh của gia đình anh Lường Văn N, sinh năm 1988 ở tổ dân phố Trung Chính, phường Q, thành phố S phát hiện người trộm cắp là Trần Đức A nên đã triệu tập để làm việc. Tại Công an phường Q, Trần Đức A khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Cơ quan Công an đến cửa hàng thu mua phế liệu của bà Hoàng Thị L tại khu phố Hưng Thông, phường Quảng Thọ, thành phố S làm việc và yêu cầu giao nộp chiếc xe mô tô Wave anpha BS: 36K4-X để yêu cầu định giá. Tại kết luận định giá trong tố tụng hình sự số: 12/KL-HĐĐG ngày 25/02/2022 của hội đồng định giá tài sản thành phố S. Kết luận: Giá trị xe mô tô biển số: 36K4- X tại thời điểm bị mất, ngày 17/01/2022 là 4.000.000 đồng.

Sau khi rà soát tại khu vực xảy ra vụ việc. Cơ quan Công an đã thu giữ đoạn Video trích xuất từ Camera an ninh của gia đình anh Lường Văn N để trưng cầu giám định. Tại Kết luận giám định số: 775/KL-KTHS ngày 16/02/2022 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa. Kết luận: Không phát hiện dấu hiệu chỉnh sửa, cắt ghép nội dung hình ảnh của USB gửi giám định. Đồng thời sao lưu hình ảnh vào 01 đĩa DVD.

Vật chứng của vụ án: - 01 (một) xe mô tô gắn BS: 36B2-X loại Wave RSX màu đen, trắng, đỏ số khung RLHJC4326BY213054, số máy JC43E-6140605 và 01 (một) đăng ký xe biển số: 36B1-X.80. Quá trình điều tra xác định biển số 36B2-X giả và xe là của chị Dư Thị T, sinh năm 1975 ở thôn 1, xã Q, thành phố S có biển số: 36B1-X.80 bị mất trộm khoảng tháng 8 năm 2021. Cơ quan CSĐT Công an thành phố S tiếp tục tạm giữ để làm rõ.

- 01 (một) áo khoác dài tay màu xanh, có mũ và 01 (một) quần dài màu đen, dọc hai bên ống quần có sọc màu trắng xanh. Sau khi Trần Đức A xác nhận đây là trang phục mặc khi đi trộm cắp tài sản của nhà anh Phạm Văn T. Cơ quan CSĐT Công an thành phố S đã trả lại cho Trần Đức A.

- 01 (một) xe mô tô BS: 36K4-X loại Wave anpha màu xanh và đăng ký xe. Sau khi định giá Cơ quan CSĐT Công an thành phố S đã trả lại cho chủ sở hữu.

- 01 (một) USB chứa hình ảnh liên quan. Sau khi giám định đã trích xuất hình ảnh ra 01 (một) đĩa DVD nên trả lại USB cho anh Lường Văn N.

- 01 (một) áo len cao cổ, 01 (một) quần Jin màu xanh bạc, 01 (một) đôi giày thể thao màu xám, 02 (hai) phong bì đựng thẻ nhớ và đĩa DVD có hình ảnh liên quan đến hành vi phạm tội của bị can, được quản lý theo hồ sơ vụ án.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra anh Phạm Văn T yêu cầu Trần Đức A phải bồi thường tài sản bị chiếm đoạt, hiện Trần Đức A chưa bồi thường; Đối với bà Lường Thị K đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm.

Cáo trạng số: 30/CTr-VKS-HS ngày 04 tháng 4 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố S, tỉnh Thanh Hóa truy tố Trần Đức A, về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Trần Đức A và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm g khoản 1 điều 52; điểm s khoản 1 điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, về tội “Trộm cắp tài sản”; xử phạt Trần Đức A mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 08/3/2022.

Về xử lý vật chứng: 01 (một) áo len cao cổ dài tay màu nâu đã qua sử dụng và cũ; 01 (một) quần Jin dài màu xanh bạc nhãn hiệu DOLEE và GABBAHA mặt trược 2 ống quần phần đùi đầu gối rách xước; 01 (một) đôi giày thể thao nhãn hiệu BOOST màu xám đã qua sử dụng là những trang phục của bị cáo không còn giá trị sử dụng. Tại phiên tòa bị cáo đề nghị được tịch thu tiêu hủy nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Đối với xe mô tô gắn BS: 36B2-X loại Wave RSX màu đen, trắng, đỏ số khung RLHJC4326BY213054, số máy JC43E-6140605 và 01 (một) đăng ký xe biển số: 36B1-X.80. Quá trình điều tra xác định biển số 36B2-X giả và xe là của chị Dư Thị T, sinh năm 1975 ở thôn 1, xã Q, thành phố S có biển số: 36B1-X.80 bị mất trộm khoảng tháng 8 năm 2021. Cơ quan CSĐT Công an thành phố S tiếp tục tạm giữ để làm rõ.

Về trách nhiệm dân sự: - Đề nghị HĐXX buộc Trần Đức A phải có trách nhiệm bồi thường cuộn dây điện cho anh T trị giá bằng tiền 1.450.000 đồng.

- Đối với chiếc xe moto BKS: 36K4-X Wave anpha, màu xanh, chị Lường Thị K đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác nên miễn xét.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận bị cáo không tranh luận gì với bản luận tội của đại Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm có điều kiện trở về với gia đình và xã hội và có điều kiện trở thành người công dân tốt, sống có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Trong giai đoạn tiến hành tố tụng tại Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Điều tra viên; Kiểm sát viên đã thực hiện đúng trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung vụ án: Do lười nhác lao động không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của người quản lý tài sản để thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản. Ngày 03/9/2021 Trần Đức A trộm cắp của gia đình anh Phạm Văn T, ở thôn Kênh Lâm, xã Q, thành phố S 01 cuộn dây điện, trị giá 1.450.000 đồng và ngày 17/01/2022 tại tổ dân phố Trung Chính, phường Q, thành phố S, Trần Đức A trộm cắp 01 xe moto BKS: 36K4-X của bà Lường Thị K, trị giá 4.000.000 đồng. Tổng tài sản qua định giá là 5.450.000đồng.

Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố Trần Đức A, về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất vụ án: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của người quản lý tài sản để thực hiện hành vi phạm tội, cố ý trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật, gây tâm lý hoang mang, lo lắng, bất bình đối với quần chúng nhân dân, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội trên địa bàn dân cư nên cần phải có đường lối xử lý nghiêm minh tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra để bị cáo thấy được sự nghiêm minh của pháp luật.

[4]. Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân xấu và là đối tượng đang có tiền sự. Cụ thể: Tiền sự: Ngày 26/7/2021 bị Công an xã Quảng Lộc, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng, về hành vi trộm cắp tài sản. (Đã nộp phạt xong); Nhân thân: Ngày 09/9/2013 bị Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng xử phạt 02 năm tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. (Đã chấp hành xong). Bị cáo không lấy đó là bài học kinh nghiệm để rèn luyện bản thân mà bất chấp pháp luật điều đó chứng tỏ ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo là rất kém. Trong vụ án này bị cáo thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản, tổng trị giá là 5.450.000đồng. Tài sản là cuộn dây điện đến nay bị cáo chưa bồi thường cho anh T. Trong vụ án này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “phạm tội 02 lần trở lên” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS nên khi lượng hình cũng cần xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo. Nhưng việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết mới đủ tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo sớm trở thành người công dân tốt sống có ích cho xã hội đồng thời răn đe và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

Về trách nhiệm dân sự: - Buộc bị cáo Trần Đức A phải có trách nhiệm bồi thường 01 (một) cuộn dây điện cho anh T bằng tiền là 1.450.000 đồng.

- Đối với chiếc xe moto BKS: 36K4-X Wave anpha, màu xanh, chị Lường Thị K đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác nên miễn xét.

Về xử lý vật chứng và án phí: Cần xem xét xử lý theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.

- Điều 61; Điều 62; Điều 65; khoản 2 điều 106; Điều 136; Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Trần Đức A, phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Trần Đức A, 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 08/3/2022.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng), tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Về xử lý vật chứng: 01 (một) áo len cao cổ dài tay màu nâu đã qua sử dụng và cũ; 01 (một) quần Jin dài màu xanh bạc nhãn hiệu DOLEE và GABBAHA mặt trược 2 ống quần phần đùi đầu gối rách xước; 01 (một) đôi giày thể thao nhãn hiệu BOOST màu xám đã qua sử dụng là những trang phục bị cáo không còn giá trị sử dụng. Tại phiên tòa bị cáo đề nghị được tịch thu tiêu hủy nên được chấp nhận theo biên bản giao nhận vật chứng số 32/BBVC-CCTHA ngày 06/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

Về trách nhiệm dân sự: - Buộc bị cáo Trần Đức A phải có trách nhiệm bồi thường cuộn dây điện cho anh Phạm Văn T, trị giá bằng tiền là 1.450.000 đồng.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Đức A, có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; bị hại anh Phạm Văn T; chị Lường Thị K và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Dư Thị T có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai tại UBND xã, phường nơi anh T, chị K và chị T có đăng ký hộ khẩu thường trú.

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6; Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự.

Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 27/2022/HS-ST

Số hiệu:27/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sầm Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;