Bản án về tội trộm cắp tài sản số 26/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN LÃO, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 26/2022/HS-ST NGÀY 29/12/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 12 năm 2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện An Lão, tỉnh Bình Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 29/2022/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 199/2022/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 12 năm 2022, đối với bị cáo:

TRẦN VĂN L, sinh ngày 28-10-2005, tại Bình Định; nơi cư trú: thôn T, xã A, huyện An Lão, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 5/12; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; con ông: không xác định, con bà Trần Thị Thu Á, sinh năm 1975; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo tại ngoại (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Minh V, sinh năm 1975, là trợ giúp viên pháp lý, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Định (có mặt).

Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Bà Trần Thị Thu Á, sinh năm 1975; nơi cư trú: thôn T xã A, huyện An Lão, tỉnh Bình Định (có mặt).

- Người bị hại: Ông Nguyễn Hữu P, sinh năm 1968; nơi cư trú: thôn X, xã A, huyện An Lão, tỉnh Bình Định (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Chị Trần Thị Thu U, sinh ngày 15 - 4 - 2006; nơi cư trú: thôn T, xã A, huyện An Lão, tỉnh Bình Định (vắng mặt).

Người giám hộ cho Trần Thị Thu U: Bà Trần Thị Thu Á (mẹ đẻ của U).

+ Anh Võ Văn A, sinh ngày 26 - 11 - 2001; nơi cư trú: thôn X, xã A, huyện An Lão, tỉnh Bình Định (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 01 giờ ngày 16/9/2022, Trần Văn L từ nhà bà Nguyễn Thị M (bà ngoại L) ở T, A, An Lão điều khiển xe đạp đi trên đường ĐT 629 theo hướng An Tân xuống An Hòa, tìm kiếm nhà dân sơ hở để trộm cắp tài sản. Khi phát hiện nhà của ông Nguyễn Hữu P, ở X, xã A, huyện An Lão, không có cổng ngõ, L nảy sinh ý định đột nhập vào nhà ông P để trộm cắp tài sản. L dựng xe ở ngoài đường bê tông rồi đi vào nhà, phát hiện cửa ra vào phía tây phòng khách nhà ông P không khóa nên L mở cửa đột nhập vào nhà ông P. L đi xuống nhà bếp thấy có một chiếc điện thoại Samsung Galaxy A03s đang sạc pin, để trên bàn nên lấy điện thoại đi ra ngoài hè. Sau đó, L quay trở lại vào phòng nhà bếp để tìm thêm tài sản thì thấy có quần áo treo trên móc tường nhà. L đến lục lọi thì phát hiện trong túi sau của quần nam có bọc một chiếc ví. L cầm quần và ví ra ngoài hiên nhà rồi lục ví lấy hết số tiền chẵn ở ngăn trong của ví (ngăn ngoài của ví có tiền lẻ L không lấy); sau đó, L cầm quần và ví bỏ lại trước cửa phòng khách phía tây rồi đi về. Nhưng khi vừa ra tới hiên trước nhà thì L quay lại vào nhà, bỏ điện thoại Samsung Galaxy A03s tại ghế trong phòng khách rồi cầm tiền ra khỏi nhà. Lấy xe đạp đi về, khi về đến nhà bà Nguyễn Thị M (bà ngoại L), L kiểm tra số tiền lấy trộm tại nhà ông P tổng cộng là 2.690.000 đồng. L tiêu xài cá nhân hết 500.000 đồng, cho Võ Văn A mượn 610.000 đồng và đổ xăng cho xe của A 30.000 đồng; còn lại 1.550.000 đồng L đã giao nộp cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện An Lão.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 14/KL-HĐĐGTS của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện An Lão xác định: Điện thoại Samsung Galaxy A03s có giá trị 1.750.000 đồng.

Về vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu: trả ông Nguyễn Hữu P 2.160.000 đồng; trả chị Trần Thị Thu U 01 xe đạp màu xanh, trên yên có chữ VH BIKE, trên bánh xe trước có 01 cái giỏ xe bằng nhựa màu xanh.

Về bồi thường thiệt hại: Người bị hại không yêu cầu bồi thường.

Tại Bản cáo trạng số: 24/CT-VKS, ngày 23 tháng 11 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Lão, tỉnh Bình Định đã truy tố bị cáo Trần Văn L về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố phát biểu lời luận tội và phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện; giữ nguyên quyết định truy tố như bản cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 98 và Điều 100 của Bộ luật hình sự (BLHS), xử phạt bị cáo Trần Văn L từ 06 đến 09 tháng cải tạo không giam giữ về tội: “Trộm cắp tài sản”.

Vật chứng vụ án: Quá trình điều tra Công an đã tạm giữ của Trần Văn L 1.550.000 đồng và 01 xe đạp màu xanh, trên yên có chữ VH BIKE, trên bánh xe trước có một cái giỏ nhựa màu xanh; tạm giữ của anh Võ Văn A 610.000 đồng.

Xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu: trả ông Nguyễn Hữu P 2.160.000 đồng, trả chị Trần Thị Thu U 01 xe đạp màu xanh, trên yên có chữ VH BIKE, trên bánh xe trước có một giỏ xe bằng nhựa màu xanh.

Về bồi thường thiệt hại: Người bị hại không yêu cầu nên không xem xét.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khi phạm tội bị cáo chưa đủ 17 tuổi, học vấn 5/12, trình độ hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, hiện tại gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, mẹ bị bệnh ung thư, được trợ cấp hàng tháng, thuộc diện hộ nghèo, có nơi cư trú rõ ràng, người bị hại có đơn không yêu cầu bồi thường thiệt hại và xin giảm hình phạt cho bị cáo. Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 54, Điều 91, Điều 98 và Điều 100 BLHS, xử phạt bị cáo 06 tháng cải tạo không giam giữ và miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.

Ý kiến của người bị hại: Sau khi sự việc xảy ra mới biết bị cáo có hoàn cảnh rất khó khăn, không có cha, mẹ bị đau bệnh ung thư, gia đình thuộc diện hộ nghèo nên không yêu cầu bồi thường gì thêm. Về hình phạt xin HĐXX áp dụng mức hình phạt nhẹ nhất cho bị cáo để có cơ hội hòa nhập cộng đồng, trở thành công dân có ích cho xã hội.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo thừa nhận hành vi của mình như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là đúng và đồng ý với lời bào chữa, không bổ sung gì thêm. Bị cáo đã xin lỗi bị hại, hứa sẽ không trộm cắp nữa, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thu giữ vật chứng và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã thu thập trong quá trình điều tra, được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa, đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 01 giờ ngày 16/9/2022, bị cáo Trần Văn L đã lén lút vào nhà ông Nguyễn Hữu P lấy số tiền 2.690.000 đồng. Do đó, hành vi mà bị cáo thực hiện, đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản”, được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Tại thời điểm phạm tội, bị cáo chưa đủ 17 tuổi, nhưng đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Lão, tỉnh Bình Định truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây mất trị an tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Về nhận thức, bị cáo biết hành vi trộm cắp của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì bản tính lười lao động, thích hưởng thụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu xài cá nhân, bị cáo đã bất chấp sự trừng phạt của pháp luật, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, cần phải xử lý nghiêm. Tuy nhiên, HĐXX nhận thấy rằng, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hiện tại gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, mẹ bị bệnh hiểm nghèo, nhận trợ cấp hàng tháng, người bị hại có đơn không yêu cầu bồi thường thiệt hại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS.

[4] Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng. Xét thấy, tại thời điểm phạm tội, bị cáo chưa đủ 17 tuổi, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội. Giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục, tạo điều kiện cho bị cáo hòa nhập cộng đồng và rèn luyện trở thành công dân có ích cho xã hội cũng đủ tác dụng, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Đối với Võ Văn A không biết số tiền mà L đưa cho A mượn là do trộm cắp, nên Công an huyện An Lão không xử lý hình sự đối với A là có căn cứ.

[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu: trả ông Nguyễn Hữu P 2.160.000 đồng, trả chị Trần Thị Thu U 01 xe đạp màu xanh, trên yên có chữ VH BIKE, trên bánh xe trước có một giỏ xe bằng nhựa màu xanh là phù hợp với quy định của pháp luật nên HĐXX không xem xét.

[7] Về án phí HSST: Bị cáo Trần Văn L là cá nhân thuộc hộ nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[8] Xét quan điểm của người bào chữa và Kiểm sát viên đề nghị áp dụng các điểm, Điều, khoản và mức hình phạt đối với bị cáo Trần Văn L là phù hợp với nhận định của HĐXX.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn L phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s, khoản 1, 2 Điều 51, Điều 91, Điều 98, Điều 54 và Điều 100 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn L 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ.

Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Trần Văn L cho Ủy ban nhân dân (UBND) xã A, huyện An Lão, tỉnh Bình Định, nơi bị cáo đăng ký cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với UBND xã A trong việc giám sát, giáo dục người bị kết án.

3. Miễn việc khấu trừ thu nhập cho bị cáo Trần Văn L.

4. Về án phí HSST: Bị cáo được miễn theo quy định của pháp luật.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 26/2022/HS-ST

Số hiệu:26/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;