Bản án về tội trộm cắp tài sản số 26/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ T - TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 26/2022/HS-ST NGÀY 31/10/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 10 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà T, tỉnh Kiên Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 25/2022/TLST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2022/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Phước H, sinh ngày 01/01/1990; Nơi sinh: Hà T, Kiên Giang; Nơi cư trú: Tổ 4, khu phố N, phường C, thành phố T, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam, tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Trần Thị H; bị cáo chưa có vợ con. Tiền án có một tiền án về tội trộm cắp tài sản bị xử phạt 12 tháng tù theo Bản án số 23/2010/HSST ngày 20/8/2010 của Tòa án nhân dân thị xã Hà T, tỉnh Kiên Giang, đã chấp hành xong hình phạt tù nhưng chưa nộp các khoản chi phí tố tụng về án phí và trách nhiệm dân sự; Tiền sự có hai tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng theo quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 07/QĐ-TA ngày 09/4/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà T, tỉnh Kiên Giang, đã chấp hành xong quyết định ngày 17/11/2021 và hành vi sử dụng trái phép chất ma túy bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng theo quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 09/2022/QĐ-TA ngày 15/7/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hà T, tỉnh Kiên Giang, đang chấp hành quyết định, bị cáo có mặt.

Bị hại:

1. Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1991. Nơi cư trú: ấp Q, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp, có đơn xin vắng mặt.

2. Bà Nguyễn Ngọc N, sinh năm 1997. Nơi cư trú: ấp Q, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp, có đơn xin vắng mặt.

3. Bà Châu Thị Bé L, sinh năm 1983. Nơi cư trú: ấp T, xã L, huyện B, tỉnh An Giang, có đơn xin vắng mặt.

Người làm chứng:

1. Ông Ngô Văn T, sinh năm 1998. Nơi cư trú: Tổ 6, khu phố N, phường C, thành phố T, tỉnh Kiên Giang, vắng mặt.

2. Ông Phạm Văn N, sinh năm 1979. Nơi cư trú: ấp T, xã L, huyện B, tỉnh An Giang, có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 07/6/2022 và ngày 08/6/2022, Nguyễn Phước H đã thực hiện hai lần hành vi trộm cắp tài sản cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Vào khoảng 00 giờ 30 phút ngày 07/6/2022, Nguyễn Phước H đi bộ đến khu vực gần chân cầu Tô Châu thuộc khu phố N, phường C, thành phố T nhìn thấy vợ chồng ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Ngọc N đang ngủ trên thùng xe tải biển số 66C4-X, H liền tiếp cận lấy trộm điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 pro Max và lấy 30.000 đồng trong áo khoác của bà N rồi đi về nhà cất giấu điện thoại, còn số tiền 30.000 đồng tiêu xài hết.

Lần thứ hai: Vào khoảng 00 giờ 30 phút ngày 08/6/2022, Nguyễn Phước H đi bộ đến khu vực ngã tư đường Nguyễn Phúc Chu và đường Nguyễn Chí Thanh thuộc khu phố N, phường C, thành phố T nhìn thấy bà Châu Thị Bé L đang ngủ trên ghế bố nơi bán hàng gia dụng bên lề đường, H liền tiếp cận lấy trộm điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A71 và lấy 30.000 đồng trong chiếc bóp của bà L rồi đi về nhà cất giấu điện thoại, còn số tiền 30.000 đồng tiêu xài hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 16/KL-HĐĐGTS ngày 28 tháng 6 năm 2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Hà T, kết luận:

Một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Pro Max màu xanh, 128GB, Imei: 356820558809605, đã qua sử dụng, thời điểm định giá ngày 07/6/2022, trị giá 18.000.000đ (Mười tám triệu đồng).

Một điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A71, màu bạc, số Imei 1: 353408117142206, số Imei 2: 353409117142204, đã qua sử dụng, thời điểm định giá ngày 08/6/2022, trị giá 4.000.000đ (Bốn triệu đồng).

Tổng giá trị tài sản là 22.000.000 đồng (Hai mươi hai triệu đồng).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận định giá tài sản.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường số tiền bị lấy trộm.

Vật chứng trong vụ án:

1. Một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Pro Max màu xanh, 128GB, Imei: 356820558809605, đã qua sử dụng.

2. Một điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A71, màu bạc, số Imei 1: 353408117142206, số Imei 2: 353409117142204, đã qua sử dụng.

3. Một quần Jean dài màu xanh đen.

4. Một áo sơ mi dài tay màu đen có sọc màu tím.

Vật chứng số 1 và 2 đã trả lại cho ông Nguyễn Văn Đ và bà Châu Thị Bé L; Vật chứng số 3 và 4 đã trả lại cho Nguyễn Phước H.

Tại bản Cáo trạng số 26/CT-VKSHT ngày 11 tháng 10 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà T truy tố bị cáo Nguyễn Phước H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Phước H mức án từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Ghi nhận biên bản giao trả vật chứng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Hà T về việc trả lại tài sản cho các bị hại và bị cáo; Về trách nhiệm dân sự bị hại không yêu cầu bồi thường nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết; Về án phí buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng truy tố và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra - Công an thành phố Hà T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại cũng như các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định vào ngày 07/6/2022 và ngày 08/6/2022 tại khu phố N, phường C, thành phố T, tỉnh Kiên Giang Nguyễn Phước H lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của bị hại để lén lút trộm cắp điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 pro Max, trị giá 18.000.000 đồng và điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A71, trị giá 4.000.000 đồng và số tiền 60.000 đồng, tổng giá trị là 22.060.000 đồng, hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà T truy tố bị cáo theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất mức độ phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương, bị cáo nhận thức được quyền sở hữu tài sản của công dân luôn được pháp luật bảo vệ, mà bất kỳ ai có hành vi xâm phạm trái phép đều bị xử lý nghiêm nhưng với bản chất lười lao động muốn có tiền tiêu xài, thỏa mãn nhu cầu cá nhân bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội nên cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm mới tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, cũng cần xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi lượng hình.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 20/8/2010, bị cáo bị Tòa án nhân dân thị xã Hà T, tỉnh Kiên Giang xử phạt 12 tháng tù về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, đây là trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Trong vụ án này bị cáo đã thực hiện 02 lần trộm cắp tài sản, mỗi lần đều cấu thành tội phạm, đây là trường hợp phạm tội hai lần trở lên là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường nên không xem xét, giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng: Ghi nhận biên bản trả lại đồ vật, tài liệu ngày 29/6/2022 và ngày 30/6/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Hà T về việc trả lại tài sản cho bị hại ông Nguyễn Văn Đ, bà Châu Thị Bé L và bị cáo Nguyễn Phước H.

[8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phước H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h, g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Phước H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt chấp hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường nên không xem xét, giải quyết.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Ghi nhận biên bản trả lại đồ vật, tài liệu ngày 29/6/2022 và ngày 30/6/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Hà T.

Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Phước H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 26/2022/HS-ST

Số hiệu:26/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tiên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;