Bản án về tội trộm cắp tài sản số 25/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦU KÈ, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 25/2022/HS-ST NGÀY 18/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong các ngày 13 và 18 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:

18/2022/TLST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2022/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Thạch P, sinh năm 1997 tại tỉnh Trà Vinh; Nơi cư trú: Ấp O, xã C, huyện C, tỉnh Trà Vinh; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; Dân tộc: Khmer; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Thạch P1 (chết) và bà Thạch Thị T (chết); Có vợ tên Thạch Thị R; Tiền án: Không có; Tiền sự: Ngày 31/12/2020 bị Công an xã C xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, ngày 23/6/2021 bị Ủy ban nhân dân xã C ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã trong thời gian 03 tháng kể từ ngày 23/6/2021 đến ngày 23/9/2021, ngày 27/6/2021 bị Công an xã C xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác, ngày 30/11/2021 bị Tòa án nhân dân huyện C ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian 12 tháng; Nhân thân: Xấu; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 08/3/2022 cho đến nay. (có mặt)

2. Đoàn Quốc Đ, sinh ngày 18/01/2001 tại tỉnh Trà Vinh; Nơi cư trú: Ấp O, xã C, huyện C, tỉnh Trà Vinh; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; Dân tộc: Khmer; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đoàn Công T và bà Thạch Thị Sô K; Tiền án: Không có; Tiền sự: Ngày 31/5/2021 bị Công an xã C xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, ngày 06/8/2021 bị Công an xã C xử phạt vi phạm hành chính 1.000.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, ngày 12/01/2022 bị Ủy ban nhân dân xã C ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày 12/01/2022; Nhân thân: Xấu; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 08/3/2022 cho đến nay. (có mặt)

3. Hứa Văn Học E (H), sinh ngày 01/6/1995 tại tỉnh Đồng Tháp; Nơi cư trú: Ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hứa Văn T và bà Lương Thị T (chết); Tiền án: Không có; Tiền sự: Không có; Nhân thân: Tốt; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 29/12/2021 cho đến nay. (có mặt)

Bị hại: Bà Nguyễn Thúy N, sinh năm 1980; địa chỉ: Ấp O, xã C, huyện C, tỉnh Trà Vinh. (có mặt)

Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn U, sinh năm 1966; địa chỉ: Ấp O, xã C, huyện C, tỉnh Trà Vinh. (xin xét xử vắng mặt)

Người phiên dịch: Ông Thạch Q - Cán bộ hưu trí. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ ngày 03/8/2021, Thạch P đến quán Karaoke N thuộc ấp O, xã C, huyện C để uống bia cùng với bạn; trong lúc đi vệ sinh, Thạch P gặp Hứa Văn Học E là nhân viên phục vụ của quán nói chuyện và nhìn thấy cây mai vàng khoảng 10 năm tuổi đang trồng trong vườn của chủ quán là bà Nguyễn Thúy N; Thạch P nảy sinh ý định chiếm đoạt cây mai nên kêu Hứa Văn Học E nhổ trộm cây mai này để bán cho Thạch P lấy tiền tiêu xài, do không có nhu cầu tiêu xài nên Hứa Văn Học E chưa đồng ý. Sau đó, Thạch P tiếp tục liên hệ với Hứa Văn Học E để kêu Hứa Văn Học E nhổ cây mai bán cho Thạch P; Hứa Văn Học E nghĩ mình là người ở địa phương khác đến để làm thuê, kiêng nể Thạch P và muốn kết thân với Thạch P để sau này trong công việc nếu có mâu thuẫn với người khác thì nhờ Thạch P giúp đỡ. Từ đó, Hứa Văn Học E đồng ý trộm cây mai cho Thạch P nhưng không thỏa thuận giá bán là bao nhiêu mà chỉ kêu Thạch P cho tiền cà phê bao nhiêu cũng được thì Thạch P đồng ý cho Hứa Văn Học E số tiền là 500.000 đồng. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, Thạch P nói cho Đoàn Quốc Đ biết việc Hứa Văn Học E đồng ý trộm cây mai của bà Nguyễn Thúy N bán cho Thạch P với giá là 1.000.000 đồng và Thạch P kêu Đoàn Quốc Đ có tiền thì đưa cho Thạch P mua cây mai này về rồi tìm người khác mua giá cao hơn để bán lại lấy tiền chênh lệch chia nhau tiêu xài, Đoàn Quốc Đ đồng ý đưa tiền cho Thạch P. Sau đó, Thạch P sử dụng số điện thoại của Đoàn Quốc Đ liên hệ và kết bạn Zalo với Hứa Văn Học E rồi kêu Đoàn Quốc Đ và Hứa Văn Học E liên hệ với nhau để lấy trộm cây mai về cho Thạch P. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Đoàn Quốc Đ và Hứa Văn Học E liên lạc với nhau qua Zalo để Hứa Văn Học E gửi hình ảnh cây mai cho Đoàn Quốc Đ xem. Đoàn Quốc Đ xác định cây mai có giá trị cao hơn nhiều so với giá tiền mà Thạch P cho biết sẽ mua nên Đoàn Quốc Đ thống nhất và trao đổi với Hứa Văn Học E cách thức để lấy cây mai. Hứa Văn Học E bàn bạc với Đoàn Quốc Đ thống nhất với nhau về việc Hứa Văn Học E đợi bà Nguyễn Thúy N và nhân viên trong quán ngủ rồi sẽ tìm cách lấy cây mai từ trong khu vực quán bỏ ra ngoài hàng rào còn Đoàn Quốc Đ sẽ tự mang cây mai đến giao cho Thạch P. Khoảng 00 giờ ngày 04/8/2021, Hứa Văn Học E quan sát thấy bà Nguyễn Thúy N và nhân viên trong quán đã ngủ nên một mình đi ra vườn dùng tay lắc, nhổ cây mai và mang cây mai bỏ qua hàng rào rồi báo tin cho Đoàn Quốc Đ biết vị trí để cây mai. Sau đó, Đoàn Quốc Đ và Thạch P đến điểm hẹn để mang cây mai về trồng phía sau nhà của Thạch P. Cùng ngày, bà Nguyễn Thúy N phát hiện cây mai bị mất nên đã trình báo sự việc đến Cơ quan Công an; quá trình điều tra thì Hứa Văn Học E, Thạch P và Đoàn Quốc Đ thừa nhận hành vi vi phạm của mình như đã nêu trên.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 31/BKL-HĐĐG ngày 01 tháng 9 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C, kết luận như sau: Tài sản thiệt hại vào ngày 04/8/2021 là cây mai vàng khoảng 10 năm tuổi có chu vi (hoành) gốc là 49cm, chiều cao là 150cm, chiều rộng tán lá là 130cm có giá trị thành tiền là 3.000.000 đồng.

Vật chứng, tài liệu, đồ vật thu giữ gồm có: 01 (một) cây mai vàng khoảng 10 năm tuổi có chu vi (hoành) gốc là 49cm, chiều cao là 150cm, chiều rộng tán lá là 130cm; cơ quan Công an xã C đã trao trả cho bị hại Nguyễn Thúy N.

Tại Cáo trạng số: 20/CT-VKS-HS ngày 01 tháng 4 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Trà Vinh đã truy tố các bị cáo Thạch P, Đoàn Quốc Đ, Hứa Văn Học E về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, vị đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên như quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Thạch P từ 09 (chín) đến 12 (mười hai) tháng tù, bị cáo Đoàn Quốc Đ từ 06 (sáu) đến 09 (chín) tháng tù, bị cáo Hứa Văn Học E từ 06 (sáu) đến 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Về vật chứng: Cơ quan Công an xã C đã trao trả cho bị hại Nguyễn Thúy N 01 (một) cây mai vàng khoảng 10 năm tuổi có chu vi (hoành) gốc là 49cm, chiều cao là 150cm, chiều rộng tán lá là 130cm nên đề nghị Hội đồng xét xử không giải quyết.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu về trách nhiệm dân sự nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc các bị cáo Thạch P, Đoàn Quốc Đ và Hứa Văn Học E phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo Thạch P, Đoàn Quốc Đ và Hứa Văn Học E trình bày: Các bị cáo đã nhận thức được hành vi của các bị cáo là sai, các bị cáo xin lỗi bị hại và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo mức hình phạt nhẹ nhất để tạo điều kiện cho các bị cáo được giáo dục, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Người làm chứng ông Nguyễn Văn U đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt và có đơn xin Tòa án xét xử vắng mặt; người làm chứng đã có lời khai đầy đủ, rõ ràng trong hồ sơ vụ án nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt người làm chứng theo quy định tại Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi tiến hành tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, quyết định của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân huyện C: Trong quá trình điều tra, truy tố Điều tra viên, Kiểm sát viên, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân huyện C đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Tại phiên tòa các bị cáo Thạch P, Đoàn Quốc Đ và Hứa Văn Học E đã khai nhận vào khoảng 10 giờ ngày 03/8/2021 bị cáo Thạch P đến quán Karaoke N thuộc ấp O, xã C, huyện C, tỉnh Trà Vinh để uống bia, lúc đi vệ sinh bị cáo Thạch P gặp bị cáo Hứa Văn Học E nói chuyện và nhìn thấy cây mai vàng trồng trong quán của bị hại bà Nguyễn Thúy N đẹp nên bị cáo Thạch P nảy sinh ý định chiếm đoạt cây mai này, từ đó bị cáo Thạch P kêu bị cáo Hứa Văn Học E nhổ trộm cây mai bán cho bị cáo Thạch P, được bị cáo Hứa Văn Học E đồng ý; sau đó bị cáo Thạch P nói lại với bị cáo Đoàn Quốc Đ việc bị cáo Hứa Văn Học E đồng ý trộm cây mai của bị hại và kêu bị cáo Đoàn Quốc Đ đưa cho bị cáo Thạch P 1.000.000 đồng để mua cây mai về tìm người khác bán lại lấy tiền chênh lệch chia nhau tiêu xài, bị cáo Đoàn Quốc Đ đồng ý và đưa tiền cho bị cáo Thạch P; bị cáo Thạch P lấy điện thoại của bị cáo Đoàn Quốc Đ liên hệ với bị cáo Hứa Văn Học E qua Zalo để giao cho bị cáo Hứa Văn Học E và bị cáo Đoàn Quốc Đ liên hệ với nhau lấy trộm cây mai của bị hại; đến 00 giờ ngày 04/8/2021, bị cáo Hứa Văn Học E đã lén lút lấy trộm 01 cây mai vàng của bị hại, sau đó bỏ ra ngoài hàng rào và liên hệ cho bị cáo Thạch P và bị cáo Đoàn Quốc Đ đến mang về nhà bị cáo Thạch P trồng để bán lại kiếm lời, đúng như cáo trạng đã truy tố.

[4] Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra; phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng; phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án như các biên bản hoạt động điều tra, kết luận định giá tài sản, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường. Như vậy có đủ cơ sở để kết luận: Vào ngày 04/8/2021, tại quán Karaoke N thuộc ấp O, xã C, huyện C, tỉnh Trà Vinh, các bị cáo Thạch P, Đoàn Quốc Đ và Hứa Văn Học E là người đã thành niên, đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã bàn bạc thống nhất và có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 cây mai vàng của bị hại bà Nguyễn Thúy N có giá trị là 3.000.000 đồng; bị cáo Thạch P là người xúi giục bị cáo Hứa Văn Học E thực hiện hành vi trộm cắp cây mai của bị hại, trước khi bị cáo Hứa Văn Học E thực hiện hành vi trộm cắp cây mai của bị hại thì cả 03 bị cáo Thạch P, Hứa Văn Học E và Đoàn Quốc Đ có hứa hẹn, bàn bạc, thống nhất là sau khi bị cáo Hứa Văn Học E trộm được cây mai của bị hại sẽ bán lại cho bị cáo Thạch P và bị cáo Đoàn Quốc Đ để bị cáo Thạch P và bị cáo Đoàn Quốc Đ bán lại cho người khác hưởng tiền chênh lệch, nên hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[5] Xét tội phạm mà các bị cáo thực hiện là ít nghiêm trọng nhưng cũng đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại được pháp luật tôn trọng, bảo vệ; đối với bị cáo Thạch P có nhân thân xấu, bị cáo đã có tiền sự về hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác, bị cáo biết rõ hành vi lấy trộm tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý lôi kéo bị cáo Hứa Văn Học E và bị cáo Đoàn Quốc Đ cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của bị hại; đối với bị cáo Hứa Văn Học E, khi bị cáo Thạch P kêu bị cáo trộm cây mai của bị hại cho bị cáo Thạch P, bị cáo Hứa Văn Học E nhận thức được hành vi lấy trộm tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn thực hiện, tuy nhiên bị cáo thực hiện hành vi không vì mục đích tiêu xài cá nhân mà chỉ vì muốn tạo mối quan hệ với bị cáo Thạch P; đối với bị cáo Đoàn Quốc Đ, khi bị cáo Thạch P kêu bị cáo đưa tiền để mua cây mai về để bán lại kiếm lời, bị cáo biết rõ việc bị cáo Hứa Văn Học E sẽ trộm cây mai của bị hại, bị cáo biết rõ hành vi lấy trộm tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn có tiền tiêu xài bị cáo đồng ý với bị cáo Thạch P, sau đó bị cáo đã chủ động liên hệ với bị cáo Hứa Văn Học E để hỏi về thời gian và nơi bị cáo Hứa Văn Học E trộm mai xong để ra ngoài cho bị cáo và bị cáo Thạch P đến lấy cây mai về; với tính chất, mức độ hành vi của các bị cáo đã thực hiện, Hội đồng xét xử cần xử phạt các bị cáo với mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo thì mới có tác dụng giáo dục riêng đối với các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[6] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng xem xét các bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; bị hại có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, bị cáo Thạch P có bà ngoại và bị cáo Đoàn Quốc Đ có ông nội là người có công với cách mạng nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: Cơ quan Công an xã C đã trao trả cho bị hại Nguyễn Thúy N 01 (một) cây mai vàng khoảng 10 năm tuổi có chu vi (hoành) gốc là 49cm, chiều cao là 150cm, chiều rộng tán lá là 130cm, nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[9] Về án phí: Các bị cáo Thạch P, Đoàn Quốc Đ, Hứa Văn Học E phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Thạch P, Đoàn Quốc Đ, Hứa Văn Học E phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Thạch P 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08 tháng 3 năm 2022.

Xử phạt bị cáo Đoàn Quốc Đ 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Xử phạt bị cáo Hứa Văn Học E 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29 tháng 12 năm 2021.

2. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: Cơ quan Công an xã C đã trao trả cho bị hại Nguyễn Thúy N 01 (một) cây mai vàng khoảng 10 năm tuổi có chu vi (hoành) gốc là 49cm, chiều cao là 150cm, chiều rộng tán lá là 130cm, nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Thạch P, Đoàn Quốc Đ, Hứa Văn Học E mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

112
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 25/2022/HS-ST

Số hiệu:25/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cầu Kè - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;