Bản án về tội trộm cắp tài sản số 250/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 250/2020/HS-ST NGÀY 12/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số260/2020/TLST-HS ngày 21 tháng 10 năm 2020, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 261/QĐXXST-HS ngày 29/10/2020 đối với bị cáo:

Đỗ Đức C, sinh năm 1986; Hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn T, xã T, huyện C, tỉnh Tuyên Quang; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đỗ Ngọc Q (sinh năm 1944) và bà Quan Thị C (sinh năm 1954); Tiền án, tiền sự theo Danh chỉ bản số 000000501 lập ngày 04/8/2020 tại Công an quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội và lý lịch cá nhân, bị cáo C không có tiền án, tiền sự. Nhân thân bị cáo có các bản án đã được xóa án tích: Bản án số 68 ngày 23/5/2007, Toà án nhân dân quận Thanh Xuân, Hà Nội xử phạt 8 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 tháng về tội Trộm cắp tài sản (trị giá tài sản trộm cắp là 9.000.000 đồng); Bản án số 210/IISST ngày 27/11/2007, Toà án nhân dân quận Thanh Xuân, Hà Nội xử phạt 20 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (trị giá tài sản là 2.900.000 đồng), buộc chấp hành hình phạt 8 tháng tù của Bản án số 68 ngày 23/5/2007 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, tổng hợp là 20 tháng tù, chấp hành xong án phạt tù ngày 26/01/2009; Bản án số 28/IISST ngày 20/02/2014, Toà án nhân dân quận Thanh Xuân, Hà Nội xử phạt 18 tháng tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, chấp hành xong án phạt tù ngày 23/3/2015. Bị cáo C bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/7/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số X – Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Anh Nguyễn Xuân H, sinh năm 2000; trú tại: Số 6, ngõ 10 Đ. L, tổ 17, phường T, quận N, thành phố Hà Nội, vắng mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Xuân C, sinh năm 1970; trú tại: Số 6, ngõ 10 Đ. L, tổ 17, phường T, quận N, thành phố Hà Nội, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 03 giờ ngày 30/7/2020, Đỗ Đức C đi vào các khu dân cư của phường T, N, Hà Nội mục đích tìm kiếm tài sản để trộm cắp. Khi đến ngõ 205 L.T.V, phường T, thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Future màu xanh, BKS: 33L6-xxxx của anh Nguyễn Xuân H (sinh năm: 2000, HKTT: Số 6, ngõ 10 Đ. L, tổ 17 phường T, quận N, thành phố Hà Nội) dựng trong ngõ, xung quanh thấy không có ai, C đã lấy chiếc xe mô tô trên dắt về cất giấu tại ngõ 73 P. K, phường T, quận N, Hà Nội. Khoảng 06 giờ cùng ngày, C sử dụng số điện thoại 097235xxxx gọi đến số 038423xxxx của anh Nguyễn Văn T (sinh năm 1994, nơi cư trú: TDP T, D, H, Hà Nội là thợ sửa chữa xe) nói có C có chiếc xe mô tô Honda Future muốn bán nhưng bị mất giấy tờ xe, anh T đồng ý và thống nhất mua chiếc xe của C với giá 1.500.000 đồng. Đến khoảng 8 giờ cùng ngày, C gọi đến số 038307xxxx của anh Bùi Tiến T1 (sinh năm: 2000, Nơi cư trú: Ngõ 30 P. K, T, N, Hà Nội) là thợ sửa khóa tại khu vực chợ P. K thuê đến ngõ 73 P. K đánh chìa khóa mở chiếc xe máy trên. Khi anh T1 đang đánh chìa khóa thì tổ công tác Công an phường T làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát trên địa bàn kiểm tra, do sợ bị lộ nên C vùng bỏ chạy thì bị tổ công tác Công an phường đuổi theo bắt giữ, đưa về trụ sở làm rõ.

Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Future màu xanh, BKS: 33L6- xxxx; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J5 màu trắng bạc, số Imei: 352135077689337, bên trong có sim số 097235xxxx.

Tại Kết luận định giá tài sản số 401/KLĐGTS ngày 07 tháng 08 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự quận Nam Từ Liêm, xác định: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Future màu xanh, BKS: 33L6-xxxx, số khung: 342435, số máy: 0342494, đăng ký lần đầu ngày 05/3/2003, đã qua sử dụng, có trị giá 5.000.000đ (năm triệu đồng).

Tại Cơ quan điều tra, Đỗ Đức C đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, phù hợp với vật chứng đã thu giữ và các tài liệu điều tra khác.

Đối với anh Bùi Tiến T1 và anh Nguyễn Văn T do khi được C thuê để đánh chìa khóa xe và thỏa thuận mua bán xe Honda Future, BKS: 33L6-xxxx với Ch, cả hai đều không biết nguồn gốc chiếc xe do C trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Đối với chiếc xe mô tô BKS: 33L6-xxxx, quá trình điều tra xác định thuộc sở hữu của ông Nguyễn Xuân C (Sinh năm: 1970, HKTT: Số 6, ngõ 10 Đ. L, tổ 17 phường T, N, Hà Nội), là bố của anh Nguyễn Xuân H. Ông C mua xe này cho anh H sử dụng. Ngày 06/8/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Nam Từ Liêm ra Quyết định xử lý vật chứng số 97 trả lại chiếc xe trên cho ông C. Ông C và anh H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường về dân sự.

Bản cáo trạng số267/CT-VKSNTL ngày 20/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố bị cáo Đỗ Đức C về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa bị cáo Đỗ Đức C đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại Cơ quan điều tra, thừa nhận hành vi phạm tội “Trộm cắp tài sản” như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm trong phần luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố tại bản Cáo trạng số 267/CT-VKS ngày 20/10/2020 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụngkhoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt: Bị cáo Đỗ Đức C từ 12 đến 15 tháng tù. Tịch thu sung quỹ Nhà Nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J5 màu trắng bạc, số Imei: 352135077689337, bên trong có sim số 097235xxxx.

Lời nói sau cùng bị cáo C đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo C tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án, vật chứng, kết luận định giá tài sản và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án mà Cơ quan điều tra đã thu thập được đã có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 03 giờ 00 phút ngày 30/7/2020, tại ngõ 205 L. T. V, phường T, N, Hà Nội, Đỗ Đức C đã có hành vi trộm cắp chiếc xe máy Honda Future màu xanh, BKS:

33L6-xxxx trị giá 5.000.000 dồng (năm triệu đồng) của anh Nguyễn Xuân H. Hành vi của bị cáo Đỗ Đức C đã phạmtội “Trộm cắp tài sản”theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố bị cáo C là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội và bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo C là đối tượng có nhân thân xấu đã nhiều lần bị xử phạt tù về hành vi trộm cắp tài sản, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng khi ra trại bị cáo không chịu làm ăn lương thiện tiếp tục sống lang thang tại Hà Nội để lợi dụng sơ hở của người có tài sản trộm cắp lấy tiền ăn tiêu bất chấp pháp luật do vậy đối với bị cáo C cần phải xử lý nghiêm, cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

Khi lượng hình phạt cũng xét tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo C thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luậthình sự năm 2015.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo C không có việc làm ổn định, kinh tế khó khăn để miễn hình phạt bổ sung phạt tiền cho bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo C bồi thường dân sự nên không đặt ra xem xét.

[6] Về vật chứng vụ án đã bàn giao cho Chi cục Thi hành án dân sự quận N là 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J5 màu trắng bạc, số Imei:

352135077689337, bên trong có sim số 097235xxxx là công cụ C dùng để liên lạc gọi thợ sửa khóa và bán chiếc xe máy sau khi trộm cắp được nên cần tịch thu sung quỹ Nhà Nước theo Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47, Bộ luật hình sự 2015; Điều 106, Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333, Điều 337 và Điều 338 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Tuyên bố bị cáo Đỗ Đức C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Đỗ Đức C 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/7/2020.

Vật chứng của vụ án:

Tịch thu sung quỹ nhà nước nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J5 màu trắng bạc, số Imei: 352135077689337, bên trong có sim số 097235xxxx hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận N đang quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng số 23 ngày 22/10/2020.

Bị cáo Đỗ Đức C phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 250/2020/HS-ST

Số hiệu:250/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;