Bản án về tội trộm cắp tài sản số 24/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ GC, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 24/2022/HS-ST NGÀY 14/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân thị xã GC, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 17/2022/TLST-HS ngày 15 tháng 4 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2022/QĐXXST- HS ngày 26 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Đ, sinh năm: 1990 tại tỉnh Tiền Giang; Nơi cư trú và chỗ ở: ấp Bà Canh, xã Tân Thành, huyện GC Đông, tỉnh Tiền Giang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 01/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn Q và bà Nguyễn Thị L (chết); Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Bản án số 55/2015/HSST ngày 22/4/2015 của Tòa án nhân dân huyện LT, tỉnh Đồng Nai xử phạt Nguyễn Văn Đ 08 năm tù về tội “Cướp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 27/12/2014. Chấp hành xong vào ngày 27/01/2021; Tiền sự: Không;

- Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 17/01/2022, chuyển tạm giam ngày 20/01/2022 cho đến nay tại nhà tạm giữ Công an thị xã Gò Công, có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại:

1. Anh Bùi Quốc C, sinh năm: 1983; (Xin vắng mặt) Nơi cư trú: Khu phố N, phường B, thị xã GC, tỉnh Tiền Giang;

2. Anh Nguyễn Duy Thanh S, sinh năm 1981; (Xin vắng mặt) Nơi cư trú: Khu phố N, phường B, thị xã GC, tỉnh Tiền Giang;

3. Anh Nguyễn Thanh TR, sinh năm 1989; (Xin vắng mặt) Nơi cư trú: ấp LM, xã LC, thị xã GC, tỉnh Tiền Giang;

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Thanh H, sinh năm: 1981; (Xin vắng mặt) Nơi cư trú: ấp LM, xã LC, thị xã GC, tỉnh Tiền Giang;

2. Anh Nguyễn Văn Trúc E sinh năm 1981; (Xin vắng mặt) Nơi cư trú: khu phố M, thị trấn VL, huyện GCĐ, tỉnh Tiền Giang;

3. Chị Trương Thị Kim L, sinh năm 1987; (Xin vắng mặt) Nơi cư trú: ấp 7, xã BX, thị xã GC, tỉnh Tiền Giang;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vụ thứ nhất:

Vào buổi sáng ngày 06/01/2022, Nguyễn Văn Đ đi bộ từ hướng Bến xe khách phường B, thị xã GC, tỉnh Tiền Giang ra Chợ Gia cầm thuộc xã LH, thị xã GC, tỉnh Tiền Giang. Đi được một đoạn, thấy trước Cửa tiệm làm cửa nhôm của anh Bùi Quốc Cường có dựng ở lề đường một xe mô tô hai bánh, nhãn hiệu ETS, loại 110, màu xanh, biển kiểm soát 63Y1-1494, số khung: H2UMAXS10116, số máy P52FMH010116, xe còn gắn chìa khóa, không có người trông coi nên lén lút lấy trộm xe mô tô này rồi điều khiển theo Quốc lộ 50 chạy đi, được một đoạn thì dừng lại, bẻ biển số xe vứt bỏ (hiện không nhớ được địa điểm), sau đó đem bán xe mô tô cho vựa ve chai của anh Nguyễn Thanh H được số tiền là 500.000 đồng tiêu xài cá nhân.

Tang vật thu giữ:

+ 01 xe mô tô hai bánh, nhãn hiệu ETS, loại 110, màu xanh, biển kiểm soát 63Y1-1494, số khung: H2UMAXS10116, số máy P52FMH010116.

Theo Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã GC số 09/KL-HĐĐG ngày 24/01/2022:

+ 01 xe mô tô hai bánh, nhãn hiệu ETS, loại 110, màu xanh, biển kiểm soát 63Y1-1494, số khung: H2UMAXS10116, số máy P52FMH010116 trị giá 2.000.000 đồng.

Vụ thứ hai:

Vào ngày 15/01/2022, Nguyễn Văn Đ đi bộ tại khu vực hẻm 3, phường 4, thị xã GC, tỉnh Tiền Giang thì thấy tại Cửa tiệm hàn của anh Nguyễn Duy Thanh S có dựng một xe mô tô hai bánh, nhãn hiệu Sirius, biển kiểm soát 70H9-8341, màu xanh, số khung: 5HU2-25884, số máy P5HU2-25884, trên xe có gắn chìa khóa, không có người trông coi nên lén lút lấy trộm xe mô tô này rồi điều khiển xe theo Quốc lộ 50, sau đó rẽ vào đường hướng đi xã BX bán xe mô tô cho vựa ve chai của chị Trương Thị Kim Loan với giá 600.000 đồng tiêu xài cá nhân.

Tang vật thu giữ:

+ 01 xe mô tô hai bánh, nhãn hiệu Sirius, màu xanh, biển kiểm soát 70H9- 8341, số khung: 5HU2-25884, số máy P5HU2-25884.

Theo Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã GC số 10/KL-HĐĐG ngày 24/01/2022:

+ 01 xe mô tô hai bánh, nhãn hiệu Sirius, màu xanh, biển kiểm soát 70H9- 8341, số khung: 5HU2-25884, số máy P5HU2-25884 trị giá 4.000.000 đồng.

Vụ thứ ba:

Vào khoảng 07 giờ 00 phút ngày 16/01/2022, Nguyễn Văn Đ đi bộ dọc theo Quốc lộ 50 hướng từ Bến xe khách phường 4, thị xã GC, tỉnh Tiền Giang ra Chợ Gia cầm thuộc xã LH, thị xã GC, tỉnh Tiền Giang thì thấy trước nhà của anh Nguyễn Thanh TR có dựng một xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, màu đỏ đen, biển kiểm soát 63B6-008.22, số khung C630AY421296, số máy: 5C63-421347, trên xe có gắn chìa khóa, không có người trong coi nên lén lút lấy trộm xe mô tô này rồi điều khiển xe đi về khu vực Cảng VL, huyện GC Đông, tỉnh Tiền Giang thì dừng lại, bẻ biển số xe vứt bỏ (hiện không nhớ được địa điểm), sau đó đem bán xe mô tô cho vựa ve chai của anh Nguyễn Văn Trúc E với giá 700.000 đồng tiêu xài cá nhân.

Tang vật thu giữ:

+ 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, màu đỏ đen, biển kiểm soát 63B6-008.22, số khung C630AY421296, số máy: 5C63-421347.

Theo Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã GC số 08/KL-HĐĐG ngày 24/01/2022:

+ 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, màu đỏ đen, biển kiểm soát 63B6-008.22, số khung C630AY421296, số máy: 5C63-421347 trị giá 8.000.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 19/CT-VKSTXGC ngày 12/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân Thị xã GC, tỉnh Tiền Giang truy tố bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình nhu nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã GC, tỉnh Tiền Giang vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng nhu nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

1/ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

2/ về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 38; Điểm S khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự;

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 02 năm đến 02 năm 03 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/01/2021.

3/ Số tiền thu lợi bất chính: Buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ phải nộp lại số tiền 1.800.000 đồng.

4/ Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Bị cáo Nguyễn Văn Đ rất ăn năn hối hận về hành vi của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã GC, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã GC, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn Đ đã khai nhận hành vi phạm tội: vào các ngày 06/01/2022 tại Cửa tiệm làm cửa nhôm của anh Bùi Quốc C; ngày 15/01/2022 tại Cửa tiệm hàn của anh Nguyễn Duy Thanh S và ngày 16/01/2022 tại nhà của anh Nguyễn Thanh TR. Nguyễn Văn Đ đã lén lút trộm cắp tài sản của anh Bùi Quốc C là một xe mô tô hai bánh, nhãn hiệu ETS biển kiểm soát 63Y1-1494; trộm cắp tài sản của anh Nguyễn Duy Thanh S là một xe mô tô hai bánh, nhãn hiệu Sirius biển kiểm soát 70H9-8341; trộm cắp tài sản của anh Nguyễn Thanh TR là một xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius biển kiểm soát 63B6- 008.22. Tổng giá trị tài sản Nguyễn Văn Đ chiếm đoạt là 14.000.000 đồng nhu nội dung Cáo trạng đã nêu, không có oan sai.

Lời khai nhận trên của bị cáo đã phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã GC; các kết luận định giá số 08/KL-HĐĐG, 09/KL-HĐĐG và 10/KL-HĐĐG ngày 24/01/2022 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thị xã GC, lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đồng thời khớp với các lời khai trước đây của bị cáo tại cơ quan cơ điều tra và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[3]. Với các chứng cứ tài liệu đã nêu trên, Tòa án có đầy đủ căn cứ để kết luận bị cáo Nguyễn Văn Đ đã có hành vi đã có hành vi lén lút, lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của người bị hại trong việc quản lý tài sản để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản có giá trị tổng cộng là 14.000.000 đồng. Cho nên hành vi trên của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[4]. Về động cơ, mục đích của tội phạm: Bị cáo có đầy đủ sức khỏe và năng lực hành vi, nhưng chỉ vì chây lười lao động, khi phát hiện tài sản không người trông coi bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tài sản mục đích bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Hành vi phạm tội trên đây của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được luật pháp nhà nước ta bảo vệ, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an ở địa phương.

[5]. Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra Nguyễn Văn Đ đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ theo điểm S khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6]. Về tình tiết tăng nặng: Nguyễn Văn Đ đã thực hiện 03 vụ án trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội nên lần phạm tội này bị cáo đã tái phạm là các tình tiết tăng nặng theo điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[7]. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Nguyễn Văn Đ có nhân thân xấu, bị cáo có 01 tiền án về tội “Cướp tài sản” chưa được xóa án tích. Sau khi được tái hòa nhập hoà nhập cộng đồng, bị cáo không nhận thức được lỗi lầm của mình mà lại tiếp tục phạm tội. Điều này chứng tỏ rằng bị cáo xem thường pháp luật, không chịu sửa chữa lỗi lầm. Vì vậy cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục răn đe và phòng chống tội phạm, đồng thời cho bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội.

[8]. Theo quy định tại khoản 5 điều 173 của Bộ luật Hình sự thì các bị cáo có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, tuy nhiên xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử không phạt tiền đối với các bị cáo.

[9]. Đối với Nguyễn Thanh H, Trương Thị Kim L, Nguyễn Văn Trúc E, qua làm việc không biết được các tài sản trên là do Nguyễn Văn Đ phạm tội mà có nên Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thị xã GC không truy cứu trách nhiệm hình sự là có cơ sở.

[10]. Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại tài sản, người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu trách nhiệm dân sự nên không xem xét.

[11]. Về số tiền thu lợi bất chính: số tiền 1.800.000 đồng bị cáo bán tài sản trộm cắp là tiền thu lợi bất chính, cho nên buộc bị cáo nộp vào ngân sách nhà nước là phù hợp quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[12]. Về vật chứng:

- Ngày 14/4/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã GC trao trả lại cho:

+ Anh Bùi Quốc Cường: 01 xe mô tô hai bánh, nhãn hiệu ETS, loại 110, màu xanh, biển kiểm soát 63Y1-1494, số khung: H2UMAXS10116, số máy P52FMH010116.

+ Anh Nguyễn Duy Thanh S: 01 xe mô tô hai bánh, nhãn hiệu Sirius, màu xanh, biển kiểm soát 70H9-8341, số khung: 5HU2-25884, số máy P5HU2-25884.

+ Anh Nguyễn Thanh TR: 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, màu đỏ đen, biển kiểm soát 63B6-008.22, số khung C630AY421296, số máy: 5C63-421347.

Việc xử lý vật chứng của cơ quan điều tra là đứng quy định pháp luật nên ghi nhận.

[13]. Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016.

[14]. Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 173; Điều 38; Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự;

- Điều 106; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016;

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/01/2022.

3. Về tiền thu lợi bất chính:

Buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ phải nộp lại số tiền 1.800.000 đồng để nộp ngân sách Nhà nước, thời gian thực hiện sau khi án có hiệu lực pháp luật.

4. Về án phí:

Buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án để Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm. Trường hợp những người vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

74
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 24/2022/HS-ST

Số hiệu:24/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Gò Công - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;