Bản án về tội trộm cắp tài sản số 239/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 239/2021/HS-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 193/2021/HSST ngày 18 tháng 6 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 222/2021/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 7 năm 2021; quyết định hoãn phiên tòa số 116/2021/QĐST-HS ngày 20 ngày 8 tháng 2021 và thông báo mở lại phiên tòa số 10/TB-TA ngày 15 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Xô V, sinh năm 1988 tại tỉnh Bạc Liêu; thường trú: Ấp Kh, xã T, huyện G, tỉnh B; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 08/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Nguyễn Trung K, sinh năm 1965 và bà Trần Thị G, sinh năm 1968; bị cáo có 03 em ruột, lớn sinh năm 1994, nhỏ sinh năm 2000; có 01 con sinh năm 2005; tiền án: Bản án số 32/2019/HSST, ngày 30/01/2019 của Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt bị cáo 01 năm 09 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành xong ngày 26/4/2020; tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/4/2021 đến nay. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị hại: Anh Phan V Đ, sinh năm 1996; thường trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ; chỗ ở: Số 55 (số cũ 14/71) khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh B. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 05 giờ 00 phút ngày 02/4/2021, Nguyễn Xô V điều khiển mô tô biển số 55P4-9751 đến phòng trọ của bạn gái là Thông Mạn Ngọc tại số 55 (số cũ 14/71) khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh B. Khi đi đến đường Nguyễn Tri Ph thì V nhìn thấy Nghĩa (chưa rõ nhân thân, lai lịch) đang uống cà phê tại quán ven đường, V rủ Nghĩa cùng đi đến phòng của Ngọc chơi thì Nghĩa đồng ý. Đến nhà trọ của Ngọc, V dựng xe ở ngoài, cổng của nhà trọ không khóa nên V và Nghĩa đi vào và nhìn thấy có 01 xe mô tô biển số 48F4-1844 để ngoài hành lang không có người trông coi nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản bán lấy tiền tiêu xài. Để thực hiện hành vi, Nghĩa tiến đến vị trí chiếc xe mô tô biển số 48F4-1844 và đẩy xe ra ngoài, còn V thì đi vào phía trong của nhà trọ để cảnh giới. Sau khi dắt được xe ra ngoài thì V đi xuống điều khiển xe mô tô biển số 55P4-9751 và dùng chân đẩy xe mô tô biển số 48F4-1844 do Nghĩa ngồi trên điều khiển về nhà trọ tại số 36/60 khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh B để cất giấu. Tại đây, V để xe mô tô biển số 48F4-1844 ở hành lang nhà trọ và dùng kiềm mở biển số xe này vứt vào sọt rác (hiện không thu hồi được), còn Ngh bỏ đi đâu không rõ. Đến ngày 04/4/2021, V đến Công an phường An Bình, thành phố Dĩ An đầu thú về hành vi phạm tội của mình và cùng cơ quan Công an đến nhà trọ 36/60 khu phố Bình Đường 4, phường An Bình, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương để giao nộp tài sản bị chiếm đoạt là 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Deahan, số khung MDCG013DM001575, số máy VDMD1000001575, không có biển số.

Biên bản và kết luận của Hội đồng định giá tài sản thành phố Dĩ An kết luận 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Deahan, số khung MDCG013DM001575, số máy VDMD1000001575, không có biển số trị giá 3.200.000 đồng.

Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô nhãn hiệu Deahan, số khung MDCG013DM001575, số máy VDMD1000001575, không có biển số; 01 xe môt tô hiệu AirBlade, biển số 55P4-9751, số khung LHJF180GYY542244, số máy JF18E5042331.

Ngày 12/4/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Dĩ An ra quyết định khởi tố vụ án hình sự; quyết định khởi tố bị can và ra lệnh tạm giam đối với Nguyễn Xô V về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự 2015.

Quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo, bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản thành phố Dĩ An.

Cáo trạng số: 216/CT-VKS ngày 18/6/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Xô V về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điển h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xử phạt bị cáo từ 12 (mười hai) tháng đến 15 (mười lăm) tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Deahan, số khung MDCG013DM001575, số máy VDMD1000001575, không có biển số, chưa xác minh được thông tin nguồn gốc nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An tiếp tục xác minh, xử lý sau.

Đối với 01 xe môt tô hiệu AirBlade, biển số 55P4-9751, số khung LHJF180GYY542244, số máy JF18E5042331. V khai nhận đã mượn chiếc xe của Nghĩa (chưa rõ nhân thân, lai lịch) để sử dụng. Qua điều tra xác định chủ sở hữu chiếc xe biển số 55P4-9751 là ông Võ Duy S (địa chỉ: Số 40A Hiền V, phường Ph, quận T, Thành phố H). Tuy nhiên, chiếc xe ông S đăng ký là xe hiệu Attila, số khung D9D-023465, số máy D-23465. Ông S không còn cư trú tại địa phương nên không thể tiến hành làm việc. Tra cứu thông tin theo số khung LHJF180GYY542244, số máy JF18E5042331 thì không tìm thấy dữ liệu. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An đã đăng báo tìm chủ sở hữu theo quy định nhưng đến nay vẫn chưa có ai đến nhận. Xét thấy, V sử dụng xe làm phương tiện phạm tội nên đề nghị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước theo quy định.

Đối với đối tượng tên Ngh là người cùng thực hiện hành vi phạm tội với Nguyễn Xô V do chưa xác minh được lai lịch, địa chỉ nên sẽ tiếp tục xác minh xử lý sau.

Quá trình tố tụng bị cáo, bị hại có đơn xin vắng mặt. Bị hại đề nghị Tòa án xét xử theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa bị cáo và bị hại đều vắng mặt nên không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt và xử lý vật chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2] Bị cáo Nguyễn Xô V và bị hại anh Phan V Đ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt vì tình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, cần phải tiếp tục thực hiện nghiêm việc giãn cách xã hội. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 290, Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự Hội đồng xét xử chấp nhận và xét xử vắng mặt bị cáo, bị hại.

[2] Căn cứ xác định bị cáo phạm tội: Căn cứ lời khai của bị cáo, bị hại; biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú ngày 04/4/2021. Kết luận định giá tài sản số 56/KLGĐG-HĐĐGTS ngày 12/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Dĩ An và những chứng cứ, tài liệu thu thập được trong hồ sơ vụ án, xác định:

Khoảng 05 giờ 00 phút ngày 02/4/2021 tại số 55 (số cũ 14/71) khu phố Bình Đường 4, phường An Bình, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Nguyễn Xô V đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Deahan, số khung MDCG013DM001575, số máy VDMD1000001575 trị giá 3.200.000 đồng của anh Phan V Đ. Hành vi của Nguyễn Xô V thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản quy định khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Cáo trạng số 216/CT - VKS ngày 18 tháng 6 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An và luận tội của Kiểm sát viên truy tố đối với bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Tội phạm do bị cáo thực hiện tuy là ít nghiêm trọng nhưng đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Xét thấy bị cáo Nguyễn Xô V đã từng bị Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 09 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo bản án số 32/2019/HSST, ngày 30/01/2019, chấp hành xong ngày 26/4/2020 nhưng đến ngày 02/4/2021 bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mới. Căn cứ Điều 70 Bộ luật Hình sự xác định bị cáo vẫn còn tiền án. Hành vi phạm tội mới của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm. Do đó, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã đầu thú với cơ quan công an về hành vi phạm tội đã thực hiện, phạm tội nhưng chưa gây thiệt; quá trình tố tụng, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[6] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích nhưng không xem đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân để trở thành công dân tốt mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện sự coi thường pháp luật nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[7] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét bị cáo xâm phạm đến tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, đồng thời bị cáo là người có nhân thân xấu, hành vi phạm tội của bị cáo ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành những công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên áp dụng hình phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

Đối với 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Deahan, số khung MDCG013DM001575, số máy VDMD1000001575, không có biển số. Quá trình tố tụng chưa xác minh được thông tin nguồn gốc xe, bị hại chưa xuất trình được tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền sở hữu hợp pháp nên chưa có căn cứ trả lại chiếc xe cho bị hại. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An tiếp tục xác minh, xử lý sau.

Đối với 01 xe mô tô hiệu AirBlade, biển số 55P4-9751, số khung LHJF180GYY542244, số máy JF18E5042331. V khai nhận đã mượn chiếc xe của Nghĩa (chưa rõ nhân thân, lai lịch) để sử dụng. Qua điều tra xác định chủ sở hữu chiếc xe biển số 55P4-9751 là ông Võ Duy S (địa chỉ: 40A H, phường Ph, quận T, Thành phố H). Tuy nhiên, chiếc xe ông S đăng ký là xe hiệu Attila, số khung D9D- 023465, số máy D-23465. Ông S không còn cư trú tại địa phương nên không thể tiến hành làm việc. Tra cứu thông tin theo số khung LHJF180GYY542244, số máy JF18E5042331 thì không tìm thấy dữ liệu. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An đã đăng báo tìm chủ sở hữu theo quy định nhưng đến nay vẫn chưa có ai đến nhận. Xét thấy, V sử dụng xe làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước giá trị chiếc xe mô tô hiệu AirBlade, biển số 55P4-9751, số khung LHJF180GYY542244, số máy JF18E5042331.

[9] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, khung hình phạt, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Đối với đối tượng tên Nghĩa là người cùng thực hiện hành vi phạm tội với Nguyễn Xô V do chưa xác minh được nhân thân, lai lịch nên sẽ tiếp tục xác minh xử lý sau.

[11] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xô V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Xô V 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/4/2021.

2. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 89; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước giá trị chiếc xe mô tô hiệu AirBlade, biển số 55P4-9751, số khung LHJF180GYY542244, số máy JF18E5042331.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/7/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Xô V phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 239/2021/HS-ST

Số hiệu:239/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;