TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
BẢN ÁN 213/2022/HS-ST NGÀY 18/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 18 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 183/2022/TLST-HS ngày 26 tháng 7 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 250/2022/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 8 năm 2022, đối với bị cáo:
Hán Xuân H, sinh năm 1996 tại tỉnh Phú Thọ; Hộ khẩu thường trú: Khu 7, xã T, huyện T, tỉnh Phú Thọ; chỗ ở trước khi bị bắt: C30-31 chung cư B số 100 đường X, phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; trình độ văn hóa: 10/12; nghề nghiệp: không; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; cha tên Hán Xuân M, sinh năm 19742 và mẹ tên Nguyễn Thị N, sinh năm 1974; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất;
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt ngày 10 tháng 5 năm 2022, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu (có mặt).
- Bị hại: Chị Hồ Thị Phương L, sinh năm 1985; địa chỉ: C29 chung cư B, số 100 đường X, phường T, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Lê Văn C, sinh năm 1973; địa chỉ: 206 đường L, phường 4, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).
2. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1974; địa chỉ: C30-31 chung cư Bàu Sen số 100 đường T , phường Thắng Tam, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 18 giờ ngaỳ 04/5/2022, Hán Văn H đi về nhà tại chung cư B, thành phố V thì nhặt được một chùm chìa khóa. Đến trưa ngày 05/5/2022, khi H đang ở nhà thì người hàng xóm là em Hồ Đại N (sinh năm 2005 trú tại C29 chung cư B, số 100 đường X, phường Thắng T, thành phố V) qua gặp và kể có làm mất chùm chìa khóa gồm chìa khóa nhà và chìa khóa xe đạp. Lúc này, H biết chùm chìa khóa H nhặt được là của N nhưng không trả mà nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Khoảng 14 giờ ngày 07/5/2022, H đi cầu thang xuống tầng trệt chung cư thì phát hiện xe đạp hiệu Life của Nam dựng tại đây và khóa xích bánh sau xe. H quan sát không có người nên dùng bộ chìa khóa nhặt được của Nam mở khóa và đạp xe đến cửa hàng xe đạp Lê C do anh Lê Văn C (sinh năm 1973; địa chỉ 206 đường L, phường B, thành phố V) làm chủ bán được số tiền 1.700.000 đồng, H tiêu xài cá nhân và sử dụng ma túy. Sau khi bị mất xe chị Hồ Thị Phương L mẹ cháu N đã đến công an trình báo. Đến ngày 09/5/2022, H kể lại sự việc cho mẹ H là bà Nguyễn Thị N nghe và xin tiền chuộc xe. Bà N đã chuộc lại xe giao nộp cho Cơ quan Công an.
Tại Cơ quan Công an, Hán Xuân H khai nhận về hành vi phạm tội của mình như trên. (Bút lục điều tra từ số 44 đến số 55) Căn cứ bản kết luận định giá tài sản số 76/KL-HĐĐG-TTHS ngày 11/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự TP Vũng Tàu kết luận: 01 xe đạp hiệu Life (xe đạp leo núi, dáng thể thao) có giá trị là 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).
Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và xử lý vật chứng trong vụ án: Cơ quan Công an đã thu giữ 01 (một) xe đạp hiệu Life. Hiện nay Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vũng Tàu ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại xe chị Hồ Thị Phương L.
Về trách nhiệm dân sự trong vụ án: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.
Tại bản cáo trạng số 196/CT-VKS ngày 21/7/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố Hán Xuân H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên cáo trạng nội dung truy tố về tội danh, khung hình phạt đối với bị cáo Hán Xuân H về tội “Trộm cắp tài sản”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Hán Xuân H từ 06 (sáu) đến 09 (chín) tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là chị Hồ Thị Phương L đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm.
Về xử lý vật chứng: Đã xử lý xong.
Bị cáo Hán Xuân H đã khai nhận về toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Khi nói lời sau cùng, bị cáo thể hiện ăn năn, hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt. Bị hại không tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng đã có lời khai tại cơ quan điều tra và không yêu cầu bồi thường; bị cáo, bị hại và đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu tham gia phiên tòa không yêu cầu hoãn phiên tòa nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:
Khoảng 14 giờ ngày 07/5/2022, tại khu vực tầng trệt chung cư B, số 100 đường X, phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Hán Xuân H đã lén lút trộm cắp 01 (một) xe đạp hiệu Life (xe đạp leo núi, dáng thể thao) giá trị 2.500.000 đồng của chị Hồ Thị Phương L.
Hành vi bị cáo thực hiện như trên đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự đúng như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố.
Đối với anh Lê Văn C mua xe đạp của H nhưng không biết chiếc xe do H phạm tội mà có nên không có căn cứ xử lý hình sự;
Đối với lời khai của H về việc sử dụng tiền bán xe mua ma túy sử dụng, ngoài lời khai không thu được ma túy, không có căn cứ xử lý đối với H về hành vi này.
[3] Về tính chất, mức độ đối với hành vi phạm tội của bị cáo: Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo là thanh N đã trưởng thành nhưng do lười lao động, tham lam lợi ích vật chất nên bị cáo cố ý thực hiện hành vi phạm tội nhằm mục đích có tiền tiêu xài. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm, tuyên mức hình phạt phù hợp, tương xứng với hành vi, tính chất, mức độ phạm tội nhằm cải tạo, giáo dục riêng bị cáo, đồng thời bảo đảm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[4.1] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4.2] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đã tác động gia đình khắc phục hậu quả chuộc lại tài sản trả lại cho bị hại. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là chị Hồ Thị Phương L đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm.
[6] Về xử lý vật chứng:
Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho bị hại là chị Hồ Thị Phương L 01 (một) xe đạp hiệu Life (xe đạp leo núi, dáng thể thao) là đúng quy định.
[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Hán Xuân H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt: Bị cáo Hán Xuân H 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 10 tháng 5 năm 2022.
2. Về trách nhiệm dân sự: Đã xử lý xong.
3. Về xử lý vật chứng: Đã xử lý xong
4. Án phí: Bị cáo Hán Xuân H phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền kháng cáo vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo nêu trên tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 213/2022/HS-ST
Số hiệu: | 213/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/08/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về