TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 212/2022/HS-ST NGÀY 03/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 03 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 201/2022/HSST ngày 07 tháng 7 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 213/2022/QĐXXST- HS ngày 21 tháng 7 năm 2022, đối với bị cáo:
Họ và tên: Cù Ngọc H ; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày:
08/10/1994; Tại Đắk Lắk.
Nơi cư trú: Thôn 2, xã H, thành phố B , tỉnh Đắk Lắk.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 07/12; Con ông: Cù Ngọc C (đã chết); Con bà: Phạm Thị T (đã chết); Bị cáo có vợ là Lưu Thị L, có 01 con, sinh năm: 2020.
Nhân thân: Ngày 23 tháng 10 năm 2010 bị UBND thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đưa đi cải tạo tại Trường giáo dưỡng tại Đà Nẵng thời hạn 24 tháng về hành vi Trộm cắp tài sản.
Ngày 14/6/2016 bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở điều trị cai nghiện ma túy tỉnh Đắk Lắk với thời gian 20 tháng.
Tiền sự: Không; Tiền án: 01 tiền án.
Ngày 29/5/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột tuyên phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” bị cáo chưa chấp hành việc đóng án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng, chưa được xóa án tích.
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột, kể từ ngày 21/4/2022 cho đến nay – có mặt Bị hại:
Bà Trương Thị Thu H , địa chỉ: 03 Nguyễn Văn L , thị trấn E , H ện E, tỉnh Đắk Lắk (Vắng mặt) Ông Đoàn Khắc V , địa chỉ: 49 G, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk ( Vắng mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Anh Huỳnh Ngọc H1 , địa chỉ: 02/01 Y, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (Vắng mặt) Bà Võ Thị Kim L địa chỉ: 337/16 V, phường K, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (Có mặt) Người chứng kiến:
Bà Lê Thị M, địa chỉ: Thôn 1, xã H, H ện K, tỉnh Đắk Lắk (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ ngày 03/4/2022, Cù Ngọc H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại: Wave, màu sơn: Trắng - Đen - Bạc, mang biển số: 47B2-xxxxx đi từ nhà ở thôn 2, xã H, thành phố B đến Bệnh viện Đa khoa V, địa chỉ: 184 T, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, tìm người dân để tài sản sơ hở thì trộm cắp. Khi đến bệnh viện H gửi xe và đi bộ đến khu nhà D, sau đó đi lên tầng 5 Khoa Nội tim mạch thì thấy mọi người đều đã ngủ say. Lúc này, H đi vào phòng số 21-D5 thì thấy chị Trương Thị Thu H đang nằm ngủ trên giường bệnh số 03, ở trên nền nhà phía đầu giường có để 01 chiếc va ly bằng vải dù, bên trong có dây sạc điện thoại đang cắm vào ổ sạc. H liền đi đến kéo dây sạc ra thì thấy 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Pro Max, màu trắng, có ốp lưng bằng nhựa, màu xanh, gắn sim số 0917079979, H liền lấy chiếc điện thoại trên cất vào trong người. Sau đó H đi qua phòng số 25-D5 thấy ông Đoàn Khắc V đang nằm ngủ trên giường bệnh, trên tủ sắt cạnh giường có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus, màu hồng, có ốp lưng bằng nhựa, màu nâu, gắn sim số 0934358452 đang cắm sạc pin. H đi đến lấy chiếc điện thoại trên giấu vào trong người và đi ra sảnh chờ của khu nhà D, tháo bỏ ốp lưng của 02 chiếc điện thoại vừa trộm cắp được vứt ở cầu thang bộ và đi về nhà ngủ. Khoảng 08 giờ cùng ngày, H điều khiển xe mô tô 47B2-xxxxx đi tìm nơi tiêu thụ. Trên đường đi, H tháo sim của chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus vứt bỏ (không rõ địa chỉ), còn sim của chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Pro Max thì H lấy băng keo dán lại ở mặt sau của điện thoại. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, H đến cửa hàng mua bán điện thoại “Phụ kiện Đại Lộc” của anh Huỳnh Ngọc H1 . Tại đây, H đưa 02 điện thoại cho anh H1và nói “Anh kiểm tra giúp em hai điện thoại có Icloud không?”. Sau khi kiểm tra, anh H1nói với H chiếc điện thoại Iphone 12 Pro Max có Icloud còn chiếc điện thoại Iphone 6S Plus không có Icloud thì H nói anh H1chạy lại chương trình của chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus để H sử dụng. Khi anh H1vừa cài đặt xong chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus cho H thì bị Đội Cảnh sát hình sự Công an thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện, triệu tập H về làm việc và H thừa nhận hành vi phạm tội.
Đồ vật, tài liệu bị tạm giữ:
- 01 chiếc điện thoại Iphone 6S Plus, màu hồng, số Imei: 358610074xxxxxx, dung lượng 32GB.
- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax, màu trắng, số Imei: 358598938xxxxxx, số Imei 2: 358598938760858, dung lượng 128GB.
- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại: Wave, màu sơn: Trắng - Đen - Bạc, số máy: HC12E7243876, số khung: 125XFY243785, biển số: 47B2-xxxxx.
- 01 cái áo thun ngắn tay, màu đỏ đô, có chữ FREEDOM màu trắng phía trước ngực; 01 cái quần sọc Jean, màu đen.
Tại Kết luận định giá tài sản số 53/KL-HĐĐGTS ngày 05/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột xác định:
- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 12 Pro Max, màu trắng, số Imei: 358598938xxxxx, số Imei 2: 358598938760858, dung lượng 128GB, trị giá 20.100.000 đồng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 6S Plus, màu hồng, số Imei: 358610074xxxxx, dung lượng 32GB, trị giá:
2.800.000 đồng. Tổng giá trị tài sản: 22.900.000 đồng Tại Công văn số 07/HĐĐGTS ngày 07/6/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột trả lời: Từ chối định giá tài sản đối với 01 ốp lưng điện thoại Iphone 6S Plus bằng nhựa, màu nâu, đã qua sử dụng và 01 ốp lưng điện thoại Iphone 12 Promax, bằng nhựa, màu xanh, đã qua sử dụng, do Hội đồng định giá không đủ cơ sở để định giá tài sản nêu trên.
Tại bản cáo trạng số 218/CT-VKS-TP.BMT ngày 06/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Cù Ngọc H về tội“Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, bị cáo Cù Ngọc H khai nhận hành vi phạm tội đúng như lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã truy tố là đúng, bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, sau khi phân tích, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, vẫn giữ nguyên quyết định truy tố theo nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1 Điều 51; g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; Đề nghị xử phạt bị cáo Cù Ngọc H mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù.
Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
Xử lý vật chứng:
Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra quyết định xử lý vật chứng trao trả 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 6S Plus, màu hồng, số Imei: 358610074xxxxx, dung lượng 32GB cho ông Đoàn Khắc V và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 12 Pro Max, màu trắng, số Imei: 358598938xxxxx, số Imei 2: 358598938760858, dung lượng 128GB cho chị Trương Thị Thu H nhận quản lý, sử dụng.
Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra quyết định xử lý vật chứng trao trả chiếc xe mô tô nhãn hiệu: Honda, số loại: Wave, màu sơn: Trắng - Đen - Bạc, số máy: HC12E7243876, số khung:
125XFY243785, mang biển số: 47B2 - xxxx cho chị Võ Thị Kim L.
Đối với 01 cái áo thun ngắn tay, màu đỏ đô, có chữ FREEDOM màu trắng phía trước ngực; 01 cái quần sọc Jean, màu đen của bị cáo Cù Ngọc H , không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trao trả lại cho bị cáo.
Về dân sự: Sau khi nhận lại tài sản, ông Đoàn Khắc V và chị Trương Thị Thu H không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.
Đối với anh Huỳnh Ngọc H1 là người đã kiểm tra và chạy lại chương trình chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus và chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 12 Pro Max cho bị cáo Cù Ngọc H , nhưng anh H1 không biết các tài sản trên do bị cáo Cù Ngọc H phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với Huỳnh Ngọc H là phù hợp.
Đối với chị Võ Thị Kim L là người cho bị cáo Cù Ngọc H mượn xe mô tô biển số 47B2-xxxxx, nhưng chị L không biết việc bị cáo sử dụng chiếc xe mô tô làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với chị Võ Thị Kim L là phù hợp.
Đối với ốp lưng điện thoại Iphone 6S Plus và ốp lưng điện thoại Iphone 12 Pro Max mà bị cáo Cù Ngọc H đã vứt bỏ ở cầu thang khu nhà D Bệnh viện đa khoa Vùng Tây Nguyên, Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng không tạm giữ được, do đó, Cơ quan điều tra tách ra khỏi vụ án tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.
Đối với 01 sim số 0917xxxxx gắn trong chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus, bị cáo Cù Ngọc H đã vứt bỏ trên đường đi (không rõ địa chỉ) nên Cơ quan điều tra không tạm giữ, xử lý được.
Bị cáo không bào chữa và không có ý kiến tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không xuất trình thêm chứng cứ tài liệu gì, bị cáo cũng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo, xét thấy: Vào khoảng 00 giờ 15 phút ngày 04/4/2022 tại Bệnh viện Đa khoa V, địa chỉ: 184 T, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, bị cáo Cù Ngọc H đã lén lút đi vào phòng số 21-D5 trộm cắp tài sản của chị Trương Thị Thu H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 12 Pro Max, trị giá 20.100.000 đồng và sau đó đi vào phòng số 25-D5 trộm cắp của anh Đoàn Khắc V 01 điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 6S Plus, trị giá 2.800.000 đồng. Tổng giá trị tài sản trộm cắp là 22.900.000 đồng thì bị phát hiện. Hành vi của bị cáo Cù Ngọc H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản’’ được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…” [3]. Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo không những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được rằng tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật quan tâm bảo vệ, mọi hành vi xâm hại trái pháp luật đều bị trừng trị một cách thích đáng, nhưng do ý thức coi thường pháp luật muốn có tiền tiêu xài nhưng lười lao động nên bị cáo đã lén lút trộm cắp tài sản của người khác thì bị phát hiện. Do đó, cần thiết phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo thì mới đảm bảo phát H tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.
[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo Cù Ngọc H phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội hai lần trở lên và phạm tội thuộc trường hợp tái phạm được quy định tại các điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại (tài sản trộm cắp đã được trả lại cho người bị hại). Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử cần xem xét áp dụng để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt nhằm thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật Nhà nước.
Với tính chất hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo như đã nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức hình phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định thì mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, sống biết tôn trọng pháp luật, đồng thời răn đe, phòng ngừa chung trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
[5]. Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 2 Điều 47; khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
[5.1] Xử lý vật chứng:
Quá trình điều tra xác định 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 6S Plus, màu hồng, số Imei: 358610074602180, dung lượng 32GB là của ông Đoàn Khắc V và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 12 Pro Max, màu trắng, số Imei: 358598938xxxxxx, số Imei 2: 358598938760858, dung lượng 128GB là của chị Trương Thị Thu H nên ngày 26/4/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra quyết định xử lý vật chứng trao trả các tài sản trên cho ông Đoàn Khắc V , chị Trương Thị Thu H quản lý, sử dụng và sau khi nhận lại tài sản ông Vỵ, bà Hà không có yêu cầu gì thêm.
Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu: Honda, số loại: Wave, màu sơn: Trắng - Đen - Bạc, số máy: HC12E7243876, số khung: 125XFY243785, mang biển số:
47B2 - xxxx: Quá trình điều tra xác định, chiếc xe mô tô 47B2-xxxxx là của chị Võ Thị Kim L bị cáo Cù Ngọc H sử dụng chiếc xe mô tô trên làm phương tiện phạm tội thì chị Loan không biết nên ngày 26/4/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra quyết định xử lý vật chứng trao trả chiếc xe cho chị Võ Thị Kim Loan quản lý, sử dụng là phù hợp.
Đối với 01 cái áo thun ngắn tay, màu đỏ đô, có chữ FREEDOM màu trắng phía trước ngực; 01 cái quần sọc Jean, màu đen của bị cáo Cù Ngọc H , không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trao trả lại cho bị cáo.
[5.2] Về phần dân sự: Đối với hai ốp lưng điện thoại do không còn giá trị sử dụng nên ông Vỵ, chị Hà không yêu cầu bồi thường gì thêm. [6]. Về đối tượng khác:
Đối với anh Huỳnh Ngọc H là người đã kiểm tra và chạy lại chương trình chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus và chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 12 Pro Max cho bị cáo Cù Ngọc H nhưng anh H1không biết các tài sản trên do bị cáo Cù Ngọc H phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với Huỳnh Ngọc H là phù hợp.
Đối với chị Võ Thị Kim L là người cho bị cáo Cù Ngọc H mượn xe mô tô biển số 47B2-xxxxx nhưng chị L không biết việc bị cáo sử dụng chiếc xe mô tô làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với chị Võ Thị Kim L là phù hợp.
Đối với ốp lưng điện thoại Iphone 6S Plus và ốp lưng điện thoại Iphone 12 Pro Max mà bị cáo Cù Ngọc H đã vứt bỏ ở cầu thang khu nhà D Bệnh viện đa khoa V, Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng không tạm giữ được, do đó, Cơ quan điều tra tách ra khỏi vụ án tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.
Đối với 01 sim số 0917xxxxxx gắn trong chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus, bị cáo Cù Ngọc H đã vứt bỏ trên đường đi không rõ địa chỉ nên Cơ quan điều tra không tạm giữ, xử lý được.
[7].Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 173 Bộ Luật Hình sự.
1.Tuyên bố: Bị cáo Cù Ngọc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1 Điều 51; các điểm g,h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Cù Ngọc H 01 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 21/4/2022.
2. Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 2 Điều 47; khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
Trả lại cho bị cáo Cù Ngọc H 01 cái áo thun ngắn tay, màu đỏ đô, có chữ FREEDOM màu trắng phía trước ngựcvà 01 cái quần sọc Jean, màu đen.
(Vật chứng có đặc điểm và số lượng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/7/2022 giữa Công an thành phố Buôn Ma Thuột và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột)
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo Cù Ngọc H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 212/2022/HS-ST về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 212/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/08/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về