Bản án về tội trộm cắp tài sản số 21/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG XƯƠNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 21/2022/HS-ST NGÀY 31/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 01/2022/TLST-HS ngày 06 tháng 01 năm 2022, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2022/QĐXXST-HS ngày 12/01/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2022/QĐHPT-HS ngày 25/01/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 20/2022/QĐHPT-HS ngày 24/02/2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Xuân V - Sinh năm 1988 Nơi cư trú: Thôn U, xã Q, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: V Nam. Con ông Nguyễn Xuân T và bà Lê Thị Nh;

vợ con: chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị tạm giam từ ngày 12/11/2021 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Thanh Hoá.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

2. Hoàng Văn N - Sinh năm 1984 Nơi cư trú: Thôn B, xã Q, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: V Nam. Con ông Hoàng Văn H và bà Mai Thị C; có vợ là Trần Thị D và có 02 con - con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2014.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Tháng 04/2020 bị công an huyện Nông Cống xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản; ngày 06/8/2020 Hoàng Văn N đã nộp phạt.

Bị tạm giam từ ngày 12/11/2021 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Thanh Hoá.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

* Bị hại: Chị Nguyễn Thị K - Sinh năm 1969 (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Nơi cư trú: Thôn 10, xã Th, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá.

* Người làm chứng:

Anh Lê Trọng Q - Sinh năm: 1986 (Vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ dân phố Đ, Thị Trấn P, huyện Quảng Xương, Thanh Hoá.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên khoảng 04 giờ ngày 11/11/2021 Nguyễn Xuân V sử dụng điện thoại Iphone 5 lắp số sim 0375967053 gọi vào điện thoại Oppo A3s lắp số sim 0828070372 rủ Hoàng Văn N đi trộm cắp tài sản bán lấy tiền, N đồng ý. Khoảng 4 giờ 30 phút cùng ngày, N điều khiển xe mô tô BKS 29M7- 7189 đến nhà V rồi chở V đi tìm nhà dân nào sơ hở thì trộm cắp tài sản. Khi đi đến nhà chị Nguyễn Thị K, sinh năm 1969 ở thôn 10, xã Quảng Thái, huyện Quảng Xương thấy tường rào nhà chị K thấp, N dừng xe tắt máy rồi N và V quan sát xung quanh nhìn thấy không có người nên cả hai trèo qua bờ tường rào vào trong vườn thì phát hiện có một chuồng gà ở phía N khu nhà (xây bằng tường gạch, mái lợp xi măng). V lấy 02 bì xác rắn cạnh chuồng gà rồi cùng N vào bên trong chuồng gà. V cầm và mở bì để N bắt gà bỏ vào bì; sau khi bắt được 10 con gà (một bì 06 con, một bì 04 con). N và V mỗi người xách một bì rồi trèo qua tường rào đi ra ngoài. Sau đó N điều khiển xe mô tô BKS 29M7 - 7189 chở V ngồi sau ôm hai bì gà trên đi tìm nơi tiêu thụ. Khoảng 05 giờ cùng ngày, khi đi đến cửa hàng mua bán gà địa chỉ ở tổ dân phố Đông Đa, thị trấn Tân Phong, huyện Quảng Xương của anh Lê Trọng Q, sinh năm 1986 ở tổ dân phố Tân Đoài, thị trấn Tân Phong, huyện Quảng Xương thì N dừng xe ngồi ngoài, còn V xách 02 bì xác rắn có 10 con gà vừa trộm cắp vào trong cửa hàng để bán cho anh Lê Trọng Q. Trong lúc V đang bỏ 10 con gà trong 02 chiếc bì ra để cân thì tổ công tác Công an huyện Quảng Xương đi đến kiểm tra phát hiện và lập biên bản sự việc, lập biên bản xác định 10 con gà có tổng trọng lượng 25.8 kg.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 65/UBND-HĐĐGTS, ngày 11/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản UBND huyện Quảng Xương kết luận: 10 con gà loại gà thịt, tổng khối lượng 25,8kg có giá trị 2.580.000đ (Hai triệu năm trăm tám mươi nghìn đồng).

Vật chứng của vụ án gồm:

- Chiếc xe mô tô BKS 29M7- 7189, Hoàng Văn N khai chiếc xe trên N mua của anh Lê Thành Long SN 1988 ở thôn Uy Bắc, Quảng Ngọc, Quảng Xương. Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên anh Long mua lại từ một cửa hàng bán xe máy cũ ở Hà Nội từ tháng 6 năm 2020 sau đó bán lại cho Hoàng Văn N (anh Long không nhớ rõ tên và địa chỉ cửa hàng ở đâu). Tra cứu dữ liệu liên quan đến chiếc xe xác định tên người đăng ký trên xe mô tô là ông Mai Thế Anh SN 1974 ở số nhà 36 ngách 31 ngõ 6 phố Đặng Văn Ngữ, P. Phương Liên, Quận Đống Đa, TP Hà Nội. Làm việc với cơ quan điều tra ông Thế Anh khai đã bán chiếc xe mô tô trên vào khoảng năm 2012 cho một cửa hàng bán xe máy cũ ở Hà Nội (ông Thế Anh không nhớ rõ tên và địa chỉ cửa hàng ở đâu) và chiếc xe trên không có trong cơ sở dữ liệu vật chứng. Vì vậy có đủ căn cứ xác định chiếc xe trên là của Hoàng Văn N.

- Chiếc điện thoại Oppo A3s và chiếc xe mô tô BKS 29M7– 7189 của Hoàng Văn N sử dụng vào mục đích trộm cắp tài sản nên cần tịch thu, phát mại, xung công quỹ Nhà nước.

- Đối với chiếc điện thoại Iphone 5 mà V sử dụng để gọi điện cho N rủ N đi trộm cắp. V khai khi bị lực lượng Công an phát hiện V bỏ chạy và làm rơi không biết ở vị trí nào. Cơ quan điều tra đã truy tìm nhưng không thu giữ được.

Về dân sự: Chị Nguyễn Thị K đã nhận lại đủ tài sản bị mất trộm và không có yêu cầu bồi thường gì thêm.

Quá trình điều tra xác định khi V và N mang 10 con gà đến cửa hàng của anh Lê Trọng Q để bánm anh Q không biết số gà trên là tài sản do trộm cắp mà có nên không có cơ sở để xử lý hình sự đối với anh Lê Trọng Q.

Tại bản cáo trạng số 25/Ctr-VKSQX ngày 05/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Xương truy tố các bị cáo Hoàng Văn N và Nguyễn Xuân V về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Xương giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; Điểm i,s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58; Điều 17 của Bộ luật Hình sự.

Đề nghị xử phạt bị cáo N và V mỗi bị cáo từ 06 đến 08 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/11/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Vật chứng đã trả lại cho chủ sử hữu nên không xem xét. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận tội, không có ý kiến tranh luận, xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quảng Xương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Xương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục và tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên toà, bị cáo khai nhận: Vào khoảng 04 giờ 30 phút ngày 11/11/2021, Hoàng Văn N và Nguyễn Xuân V đã có hành vi lợi dụng lúc trời tối để trèo tường vào nhà chị Nguyễn Thị K để trộm cắp 10 con gà có tổng trọng lượng 25,8kg với mục đích bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 2.580.000đ (hai triệu năm trăm tám mươi nghìn đồng). Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với kết quả tranh tụng tại phiên toà và các tài liệu chứng cứ khác thu thập trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Các bị cáo Hoàng Văn N và Nguyễn Xuân V phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS. Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Xương và luận tội của Kiểm sát viên tại phiên toà hoàn toàn có căn cứ pháp luật.

[3] Về tính chất và mức độ nghiêm trọng của tội phạm:

Với mục đích để có tiền chi tiêu cá nhân mà không phải bỏ sức lao động. Bị cáo N và bị cáo V đã lợi dụng trời tối, lúc mọi người còn đang ngủ để trèo tường vào nhà người khác để lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác một cách trái pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sử hữu tài sản hợp pháp của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo, sớm trở thành công dân tốt.

Về nhân thân: Bị cáo Hoàng Văn N có nhân thân xấu, tháng 4/2020 bị công an huyện Nông Cống xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, ngày 6/8/2020 đã nộp phạt. Bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện mà tiếp tục vi phạm pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Trong vụ án này, bị cáo N và V mang 10 con gà đến bán cho anh Lê Trọng Q, tuy nhiên, anh Q không biết đó là tài sản do các bị cáo trộm cắp mà có nên không có căn cứ xử lý hình sự đối với anh Q, Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Chị Nguyễn Thị K đã nhận lại đủ tài sản bị mất trộm và không có yêu cầu gì thêm, vì vậy HĐXX không xem xét.

[6] Về vật chứng: Chiếc xe máy BKS 29M7-7189 và chiếc điện thoại OppoA3s là của bị cáo Hoàng Văn N sử dụng vào mục đích trộm cắp tài sản nên cần tịch thu xung quỹ nhà nước.

[7] Về án phí: Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

Khoản 1 Điều 173; Điểm i,s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

Khoản 1,2 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 332; Điều 333 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

Điều 6; Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án; Mục 1 phần I Danh mục mức án phí, lệ phí Toà án ban hà nh kèm theo Nghị Quyết.

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn N và Nguyễn Xuân V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt:

Hoàng Văn N 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 12/11/2021.

Nguyễn Xuân V 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 12/11/2021.

Về trách nhiệm dân sự:

Chị Nguyễn Thị K đã nhận lại đủ tài sản và không có yêu cầu gì nên HĐXX không xem xét.

Về vật chứng: Tịch thu xung quỹ nhà nước chiếc xe máy BKS 29M7-7189 và chiếc điện thoại OppoA3s là của bị cáo Hoàng Văn N là công cụ phương tiện sử dụng vào mục đích trộm cắp tài sản.

Về án phí: Buộc các bị cáo Hoàng Văn N và Nguyễn Xuân V, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Hoàng Văn N và Nguyễn Xuân V có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án. Chị Nguyễn Thị K (là người bị hại vắng mặt tại phiên toà) có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 21/2022/HS-ST

Số hiệu:21/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Xương - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;