Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 20/2023/HS-ST NGÀY 21/02/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 21 tháng 02 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Rạch Giá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 197/2022/QĐXXST- HS ngày 10 tháng 11 năm 2020. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 288/2022/QĐXXST- HS ngày 10 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:

1/ Họ và tên: Nguyễn V Th – Sinh ngày : 12/01/2000; Tên gọi khác: Không; Quê quán: Rạch Giá – Kiên Giang; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Nơi ĐKTT và chỗ ở: ẤP Tấn Bình, xã Tấn Mỹ, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Công giáo; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 5/12; Cha: Nguyễn V Thanh, sinh năm 1973, Mẹ: Nguyễn Thị Thuỳ Oanh, sinh năm: 1973; Anh, chị ruột, lớn nhất sinh năm 1992, Nh nhất sinh năm 1996; vợ là Đoàn Thị Lụa, sinh năm: 1999; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 20/5/2022. Bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại:

- Ông Tô Việt V, sinh năm 1986; (Vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Cán bộ phòng Cảnh sát cơ động tỉnh Kiên Giang.

- Bà Dương Thị H Nh, sinh năm 1990; (Vắng mặt) Địa chỉ cư trú: 71/15 H, P. Vĩnh Lợi, TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

- Bà Nguyễn Thị Như Y, sinh năm 1999; (Vắng mặt) Địa chỉ cư trú: 106/41 H, P. B, TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

- Bà Trương Thị Mỹ L, sinh năm 1984; (Vắng mặt) Địa chỉ cư trú: 703 T, KP 3, P. L, TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

- Ông Trương Tấn Đ, sinh năm 1970; (Vắng mặt) Địa chỉ cư trú: 43/17 T, KP 3, P. Vĩnh Quang, TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

- Ông Trần Hoàng N, sinh năm 1991; (Vắng mặt) Địa chỉ cư trú: 86/17 C, KP T, P. Vĩnh Thanh, TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Ông Nguyễn Hồng T, sinh năm 1991. (Vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Hiện đang chấp hành án - Ông Nguyễn V H, sinh năm 1996. (Vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Hiện đang chấp hành án

* Người làm chứng :

- Ông Trần V K, sinh năm 1969; (Vắng mặt) Địa chỉ cư trú: 24 K, KP 3, P. Vĩnh Quang, TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

- Ông Trần Thanh B, sinh năm 1972; (Vắng mặt) Địa chỉ cư trú: 88B K, P. Vĩnh Quang, TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

- Bà Trần Kim R, sinh năm 1990; (Vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Tổ 7, ấp Thuận An, xã Bình Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bản thân Nguyễn Hồng T, Nguyễn Sê A, Trương M, Nguyễn V H, Nguyễn V Th, Trần Phước S, L và C (chưa rõ tên thật và địa chỉ) đều không có nghề nghiệp. Để có tiền tiêu xài cá nhân, từ ngày 09 đến ngày 12/10/2017 Nguyễn Hồng T, Nguyễn Sê A và Trương M đã thực hiện 02 vụ Cướp tài sản trên địa bàn huyện Tân Hiệp và thành phố Rạch Giá. Trong đó có 01 vụ Cướp tài sản Trương M không tố giác tội phạm. Từ ngày 02/11/2017 đến ngày 09/01/2018 Nguyễn Hồng T, Nguyễn Sê A, Trương M, Nguyễn V H, Nguyễn V Th, Trần Phước S, L và C (chưa rõ tên thật và địa chỉ) đã thực hiện 23 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Rạch Giá, huyện Tân Hiệp, huyện Châu Thành và huyện Hòn Đất. Trong đó, T và H là người chủ mưu rủ Sê A, M, Th, S, L và C; sử dụng xe môtô nhãn hiệu SYM Atila, màu đỏ, biển số 68G1-xxxxx của H và xe môtô nhãn hiệu Wave màu trắng, không có số khung và số máy (đã bị đục phá), biển số 52HB- 1572 của T đi tìm tài sản để lấy trộm. Khi phát hiện tài sản Sê A, M, Th, S, L và C đứng ngoài canh đường còn T và H sử dụng cây đoản tự chế bẻ khóaóa xe và lấy trộm được 23 xe môtô các loại, số tiền 2.850.000 đồng và một số tài sản khác. Sau đó cùng đem xe đi bán rồi chia nhau tiêu xài cá nhân. Trong đó, riêng Th đã cùng với H thực hiện 06 vụ trộm cắp tài sản tại thành phố Rạch Giá và huyện Hòn Đất cụ thể như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 19/12/2017, H chạy xe biển số 68G1-xxxxx chở Th đến nhà số 24 K, khu phố1, phường B, H phát hiện chiếc xe môtô nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, màu xanh – trắng, biển số 68G1-xxxxx của anh Tô Việt V đậu trước nhà. Lúc này, Th ngồi ngoài xe đợi còn H lén lút sử dụng đoản bẻ khóa và lấy trộm xe biển số 68G1-xxxxx rồi bán cho T với giá 4.000.000 đồng. H chia cho Th 500.000 đồng. T đem xe biển số 68G1-xxxxx đến cửa khẩu Xà Xía bán cho người đàn ông (chưa rõ tên thật và địa chỉ) với giá 6.000.000 đồng.

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 22/12/2017, H mượn chiếc xe Wave màu đen, biển số 68S1-xxxx của bà Phạm Thị Truyền (mẹ vợ T, bà Truyền không biết H mượn đi trộm cắp tài sản), H chở Th đến trước cửa tiệm tóc số 67 Nguyễn Bỉnh KH, phường Vĩnh Thanh phát hiện chiếc xe môtô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, màu trắng, biển số 68N1-xxxxx của chị Dương Thị H Nh đậu trước cửa tiệm. Trong lúc chị H đang làm tóc cho khách.Th ngồi ngoài xe còn H lén lút sử dụng đoản bẻ khóa và lấy trộm xe rồi cùng với Th chạy đến nhà trọ L, cầu số 3, xã Mỹ Lâm, huyện Hòn Đất, bán xe cho T với giá 4.000.000 đồng, H chia cho Th 500.000 đồng. T đem xe biển số 68N1-xxxxx đến cửa khẩu Xà Xía bán cho người đàn ông (chưa rõ tên và địa chỉ) giá 6.000.000 đồng.

Khoảng 06 giờ 15 phút ngày 24/12/2017, H chạy xe biển số 68G1-xxxxx chở Th đến trước quán cà phê B10-22 H, phường B, phát hiện chiếc xe môtô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, màu đen-xám, biển số 68X1-xxxxx của chị Nguyễn Thị Như Y đậu trước quán. Trong lúc Y đang làm việc trong quán. H lén lút sử dụng đoản bẻ khóa lấy trộm xe và cùng Th chạy về nhà của H ở xã Vĩnh Hòa Hiệp, huyện Châu Thành, Kiên Giang cất giấu. Đến 13 giờ H đưa cho T chạy đến cửa khẩu Xà Xía bán cho người đàn ông (chưa rõ tên thật và địa chỉ) với giá 5.000.000 đồng, T đưa cho H 2.000.000 đồng, H chia cho Th 500.000 đồng.

Khoảng 07 giờ ngày 03/01/2018, H chạy xe biển số 68G1-xxxxx chở Th đến cơ sở sản xuất nước suối tại số F1-59 Đ, khu phố 5, phường L, phát hiện chiếc xe môtô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, màu trắng-đen, biển số 68E1- xxxxx của chị Trương Thị Mỹ L đậu phía trước tiệm. Lúc này, H sử dụng đoản bẻ khóa lấy trộm xe và cùng với Th chạy xe đến nhà trọ L bán cho T với giá 4.000.000 đồng, H chia cho Th 500.000 đồng. T đem xe đến cửa khẩu Xà Xía bán cho người đàn ông (chưa rõ tên thật và địa chỉ) với giá 6.000.000 đồng.

Khoảng 07 giờ 15 phút ngày 07/01/2018, H cùng Th đi bộ đến trước Kiốt lô 6, 7 chợ Tắc Ráng, phường An Hòa, phát hiện chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wave alpha, màu bạc-đỏ-đen, biển số 68N1-xxxxx của anh Trương Tấn Đ đậu trước Kiốt. Trong lúc anh Đ đang bán quán cơm. H sử dụng đoản bẻ khóa và lấy trộm xe rồi chở Th về nhà của H ở ấp Vĩnh Thành, xã Vĩnh Hòa Hiệp, huyện Châu Thành, Kiên Giang tháo biển số 68N1-xxxxx quăng bỏ và làm phương tiện đi lại.

Khoảng 07 giờ ngày 09/01/2018, H chạy xe Wave alpha, màu bạc-đỏ-đen (xe không biển số) chở Th đến gặp T để bán chiếc xe này. Khi chạy đến trước nhà số 241 tổ 11, ấp Hưng Giang, xã Mỹ Lâm, huyện Hòn Đất, phát hiện chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda, loại Wave anpha 100, màu trắng, biển số 68X1-xxxxx của anh Trần Hoàng N đậu trước nhà. Trong lúc anh Nguyên đang làm thuê trong nhà thì H sử dụng đoản bẻ khóaóa xe, còn Th ngồi ngoài xe đợi. Khi H lấy trộm được xe biển số 68X1-xxxxx thì cùng với Th chạy đến quán cơm gần nhà trọ L, xã Mỹ Lâm, huyện Hòn Đất gặp T và M. H bán chiếc xe không biển số và chiếc xe biển số 68X1-xxxxx cho T, nhưng T không có tiền mua. Lúc này, T chạy xe biển số 68C1-xxxxx chở M cùng với Th chạy xe không biển sốvà H chạy xe biển số 68X1-xxxxx đến cửa khẩu Xà Xía bán xe. Khi đến khu vực Hà Tiên,T gặp Nguyễn Kim R là bạn của T và nói dối qua cửa khẩu chơi Casio, thì R đồng ý và chạy xe máy cup 50 màu trắng, biển số 68NA-xxxxx của R dẫn bọn T đi đến cửa khẩu. Khi đến cửa khẩu Xà Xía, M, H và Th ngồi đợi trong quán cà phê. T chạy chiếc xe không biển số, còn R chạy xe biển số 68X1-xxxxx qua cửa khẩu, nhưng lực lượng Biên phòng không cho. T và R quay lại quán trả lại xe cho H và Th. Khi H chạy xe biển số 68X1-xxxxx đến ngã ba Cây Bàng, thị xã Hà Tiên thì gặp lực lượng Công an, H quăng bỏ cây đoản trong người. Sau đó, H bị bắt cùng vật chứng. Còn T, M, R và Th chạy về cầu Tám Ngàn, huyện Hòn Đất, Th đưa xe không biển số lại cho T, T lấy biển số 52HB-1572 gắn vào xeWave alpha, màu bạc-đỏ-đen. Đến khoảng 13 giờ ngày 10/01/2018 M gọi điện thoại cho người bạn tên Cu Hon ở Hà Tiên (chưa rõ tên thật và địa chỉ) nhờ bán chiếc xe biển số 52HB-1572. T và M chưa bán được xe thì bị bắt tang vật.

Ngày 24/01/2018 đến ngày 09/4/2018 Nguyễn V Th bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hòn Đất và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá khởi tố và ra Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú nhưng bỏ trốn và bị truy nã. Đến ngày 20/5/2022 Nguyễn V Th bị Công an phường Mỹ Xuân, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bắt theo Quyết định truy nã và chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá tạm giam để điều tra.

Đối với Nguyễn Hồng T, Nguyễn Sê A, Trương M, Nguyễn V H, Trần Phước S ngày 21/12/2018 bị Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá xét xử tại Bản án số 221, ngày 21/12/2018.

* Việc thu giữ vật chứng trong vụ án và xử lý vật chứng:

01 (một) xe máy nhãn hiệu Honđa, loại Wave alpha, màu bạc - đỏ - đen, biển số 52HB-1572; 01 (một) chiếc xe môtô nhãn hiệu Honđa, loại Wave, màu trắng, biển số 68X1-xxxxx; 02 (hai) giấy chứng nhận bảo hiểm của xe biển số 68X1-xxxxx mang tên Trịnh Thị Ngọc Xuân do công ty Bảo hiểm PJICO Kiên Giang cấp ngày 10/8/2017. Vật chứng trong vụ án đã được xử lý xong tại Bản án số 221/2018/HSST ngày 21/12/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá nên đề nghị HĐXX không xem xét.

* Tại Bản Kết luận định giá tài sản số: 31/KL-TCKH, ngày 01/02/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Rạch Giá, kết luận: xe môtô nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, màu xanh – trắng, biển số 68G1-xxxxx, số khung P7109Y005389, số máy 5P71005375 (đã qua sử dụng) có giá trị còn lại là 22.500.000 đồng.

* Tại Bản Kết luận định giá tài sản số: 144/KL-TCKH, ngày 28/6/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Rạch Giá, kết luận: xe môtô nhãn hiệu Honda Wave alpha, màu bạc-đỏ-đen, không gắn biển số, số khung 120BY162841, số máy C12E2962999 (đã qua sử dụng) có giá trị còn lại là 4.500.000 đồng.

* Tại Bản Kết luận định giá tài sản số: 173/KL-TCKH, ngày 25/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Rạch Giá, kết luận: 01 xe môtô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, màu trắng, biển số 68N1-xxxxx, số khung RLCS5C641DY039418, số máy 5C641039434 (đã qua sử dụng) có giá trị còn lại là 15.000.000 đồng; Chiếc xe môtô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, màu đen-xám, biển số 68X1-xxxxx, số khung RLCS5C640AY248801, số máy 5C64248806 (đã qua sử dụng) có giá trị còn lại là 8.000.000 đồng; Chiếc xe môtô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, màu trắng-đen, biển số 68E1-xxxxx, số khung 5C6409Y201742, số máy 5C64-201742 (đã qua sử dụng) có giá trị còn lại là 8.000.000 đồng.

* Tại Bản Kết luận định giá tài sản số: 03/KL-ĐGTS, ngày 12/01/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hòn Đất, kết luận: xe môtô nhãn hiệu Honda, loại Wave alpha 100, màu trắng, biển số 68X1-xxxxx, số máy HC12E- 099344, số khung 1250FY099275 có giá trị còn lại là 12.000.000 đồng.

* Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn V Th phạm tội “ Trộm cắp tài sản”. Về hình phạt: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 173; điểm s, r khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38; Điều 90, Điều 91, 101 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để tuyên phạt cho bị cáo Nguyễn V Th mức án từ 12 tháng đến 18 tháng tù. Phần dân sự: Bản án số 221/2018/HSST ngày 21/12/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá đã quyết định Nguyễn Hồng T, Nguyễn Sê A, Trương M, Nguyễn V H, Trần Phước S có trách nhiệm phải bồi thường cho các bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nên không đề nghị xem xét; Đề nghị buộc bị cáo Nguyễn V Th phải nộp 2.000.000 đồng tiền do phạm tội mà có sung vào ngân sách Nhà nước.

Bị cáo Nguyễn V Th đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu và xin HĐXX xem xét thời điểm bị cáo phạm tội là đang vị thành niên. Lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì để sớm có cơ hội quay về làm ăn lương thiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Rạch Giá, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiền hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét thấy, do không có nghề nghiệp nên Nguyễn V H và Nguyễn V Th đã bàn bạc cùng nhau trộm cắp tài sản là xe môtô các loại trên các tuyến đường của huyện Hòn Đất và thành phố Rạch Giá. Bằng thủ đoạn H sử dụng xe môtô nhãn hiệu SYM Atila, màu đỏ, biển số 68G1-xxxxx và chiếc xe Wave màu đen, biển số 68S1-xxxx chở Nguyễn V Th. Khi phát hiện bị hại sơ hở trong việc quản lý tài sản. H dùng đoản bẻ khóa lấy trộm xe, còn Th đóng vai trò cảnh giới, sau đó cả hai cùng đem đi bán lấy tiền chia nhau tiêu xài. Từ ngày 19/12/2017 đến ngày 09/01/2018 H và Th đã thực hiện 06 vụ trộm cắp tài sản, với 06 chiếc xe môtô các loại của các bị hại: Tô Việt V, Dương Thị H Nh, Nguyễn Thị Như Y, Trương Thị Mỹ L, Trương Tấn Đ, Trần Hoàng N, với tổng giá trị tài sản qua định giá là 70.000.000 đồng. Riêng Th được H chia 2.000.000đ. Hành vi trên của bị cáo Nguyễn V Th đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm về tội “ Trộm cắp tài sản” theo điểm điểm a, c khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. (H đã được xét xử tại Bản án số 221/2018/HSST ngày 21/12/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá).

Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá đã truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như đã viện dẫn trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ thực hiện hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo:

Hành vi của bị cáo Th là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, vì mục đích muốn có tiền tiêu xài mà không phải bỏ công sức lao động chân chính, bị cáo bất chấp pháp luật thực hiện hành vi lén lút trộm cắp nhằm chiếm đoạt tài sản của người bị hại một cách trái pháp luật. Bị cáo Nguyễn V Th cùng đồng bọn thực hiện 06 vụ trộm cắp tài sản với 06 chiếc mô tô các loại với tổng giá trị tài sản trộm được qua định giá lên đến 70.000.000 đồng là số tiền lớn. Bị cáo phạm tội nhiều lần, các bị cáo có sự phân công, cấu kết chặt chẽ với nhau trước khi thực hiện các vụ trộm cắp tài sản nên thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức, trong đó vai trò của Th là cảnh giới. Sau khi phạm tội bị cáo Th còn bỏ trốn gây khó khăn, cản trở quá trình điều tra kết thúc vụ án của cơ quan chức năng. Tất cả những điều trên thể hiện sự liều lĩnh, táo bạo, xem thường và bất chấp pháp luật của bị cáo.

Về nhân thân: trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn V Th phạm tội 02 lần trở lên thuộc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi năm 2017. Tuy nhiên, đại diện Viện kiểm sát cho rằng bị cáo đã tự nguyện khai ra những lần phạm tội khác để đề nghị áp dụng điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo, HĐXX không chấp nhận vì qua đấu tranh trong nghiệp vụ điều tra của các đồng chí công an khi lấy lời khai, lúc đầu bị cáo không khai nhận nhưng sau đó nhờ nghiệp vụ điều tra nên bị cáo mới khai nhận những lần phạm tội cùng với H đây thuộc trường hợp thành khẩn khai báo.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sư, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo cần có hình phạt tương xứng để răn đe đối với bị cáo, đồng thời cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tính giáo dục, cải tạo bị cáo trở nên một công dân tốt, đồng thời có tác dụng răn đe phòng ngừa chung cho xã hội nên mức hình phạt áp dụng cho bị cáo phải ở khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, do bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nên áp dụng những quy định tại Điều 90, Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự để xem xét mức hình phạt nhẹ hơn so với người đủ 18 tuổi, nên mức hình phạt theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp, đúng pháp luật.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Nguyễn V Th không có nghề nghiệp; thu nhập không ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo khoản 5 Điều 173 Bộ Luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017 đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Do Bản án số 221/2018/HSST ngày 21/12/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá đã quyết định buộc Nguyễn Hồng T, Nguyễn Sê A, Trương M, Nguyễn V H, Trần Phước S có trách nhiệm phải bồi thường cho các bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, không có ai yêu cầu trách nhiệm của bị cáo Th nên HĐXX không xem xét trong vụ án này.

[6] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Vật chứng trong vụ án đã được xử lý xong tại Bản án số 221/2018/HSST ngày 21/12/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá nên HĐXX không xem xét.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự buộc bị cáo Nguyễn V Th phải nộp 2.000.000 đồng là tiền do phạm tội mà có, sung vào ngân sách Nhà nước.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm:Căn cứ Điều 199 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về án phí lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn V Th phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ vào điểm a, c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 90; Điều 91, 101 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn V Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn V Th 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 20/5/2022.

* Về biện pháp tư pháp:

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự buộc bị cáo Nguyễn V Th nộp tiền do phạm tội mà có là 2.000.000 đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.

* Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn V Th phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

* Quyền kháng cáo: Báo cho các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 21/02/2023). Riêng người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày Tòa án tống Đ hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

54
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2023/HS-ST

Số hiệu:20/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;